Trần Anh Tuấn
Lời nói đầu: Sau bài viết về sử gia Tạ Chí Đại Trường, tôi chia sẻ thêm bài viết về vị thầy học của sử gia họ Tạ và của chúng tôi tại trường Đại Học Văn Khoa Sài Gòn trong thập niên 60 của thế kỷ trước. T.A.T.
Trước năm 1975 thời Việt Nam Cộng Hòa, giáo sư Nguyễn Thế Anh có công gây dựng nên uy tín Ban Sử trường Ðại Học Văn Khoa Sài Gòn. Số sinh viên ghi danh năm thứ nhất niên khoá 1974-75 lên đến khoảng 4,000 người. Trong vai trò Phó Khoa Trưởng Học Vụ, ông cũng là người chịu trách nhiệm soạn thảo chương trình tiến sĩ văn khoa Việt Nam, vốn bị xoá bỏ từ năm 1919 dưới thời Pháp thuộc. Chương trình này gồm hai cấp. Cấp thứ nhất gọi là “Năm Thứ Nhất Tiến Sĩ Chuyên Khoa.” Sau đó trong cấp thứ hai, ứng viên mới sửa soạn luận án.
Chương trình tiến sĩ chuyên khoa Sử Học bắt đầu được hai khóa thì Sài Gòn sụp đổ. Niên khoá đầu tiên 1972-73 chỉ có hai thí sinh trúng tuyển kỳ thi cuối Năm Thứ Nhất là Tạ Chí Đại Trường và Đỗ Phan Hạnh. Niên khoá thứ hai 1973-74 có hai thí sinh ghi danh, nhưng chỉ có một thí sinh dự thi và trúng tuyển. Đó là người viết những dòng chữ này.
Là người đồng thời và từng là môn đệ của ông, tôi hiểu được một vài khía cạnh trong đời sống thường nhật của sử gia Nguyễn Thế Anh.
Ông là một người khó tính. Giáo sư Lâm Thanh Liêm, lúc ấy là Trưởng Ban Ðịa ÐHVK Sài Gòn (còn giáo sư Nguyễn Thế Anh là Trưởng Ban Sử), hỏi tôi khi thấy tôi về dạy tại Ban Sử sau khi xong Cao Học, là “Sao, Tuấn về đây thấy sao? Bắc Băng Dương đó nha!”
Thực ra, trong chuyên môn, giáo sư Nguyễn Thế Anh rất thẳng thắn và bộc trực. Như trong chương trình Năm Thứ Nhất Tiến Sĩ Chuyên Khoa Sư kể trên̉, thật ra có đến 7 người học và thi mà chỉ có 2 người trúng tuyển. Hay như trong niên khoá 1973-74, khi kết quả kỳ thi cuối năm của Chứng Chỉ Lịch Sử Thế Giới Thời Cổ được công bố, bản niêm yết chỉ có một câu: “Không có thí sinh trúng tuyển.” Và nhất là chuyện đại tướng Cao Văn Viên khi vào vấn đáp một chứng chỉ cuả Ban Pháp Văn với giáo sư Nguyễn Thế Anh, đại tướng Viên đã bị đánh rớt. Sự kiện này ít người biết, nhưng đó là điểm son của nền giáo dục đại học VNCH nói chung, và Ban Sử Trường Đại Học Văn Khoa Sài Gòn trước 30.4.1975 nói riêng. Cũng cần nói thêm về tư cách đáng ca ngợi của đại tướng Cao Văn Viên trong sự việc này: ông đã không có một phản ứng nào đối với người đã đánh rớt ông, vốn còn đang trong hạn tuổi quân dịch trong thời chiến!
Giáo sư Nguyễn Thế Anh có những khó khăn trong giao tiếp xã hội. Ðối với sinh viên, ông nghiêm khắc và xa cách. Sinh viên sợ và phục ông mà không dám gần ông. Có khi ông lại võ đoán làm tổn thương người cộng sự. Chính tôi là người được ông bảo trợ Cao Học và Tiến Sĩ, và nhận vào dậy tại Ðại Học Văn Khoa Sài Gòn, và giới thiệu vào Ban Quản Trị của Hội Société des Études Indochinoises trong vai trò thư-viện-trưởng[1], mà đã có lần tôi muốn rời bỏ Ðại Học Văn Khoa Sài Gòn năm 1974, nếu đêm hôm tôi quyết định từ bỏ Ban Sử không có sự khuyên can của giáo sư Phạm Cao Dương, hiện sinh sống tại Nam California. Chuyện xảy ra chỉ xin tóm tắt bằng một hai câu. Ðược dạy tại Trường Ðại Học Văn Khoa Sài Gòn trước năm 1975 là một danh dự rất lớn mà hiếm người có được, và tôi không bao giờ quên ơn người bảo trợ. Nhưng danh dự nào lớn bằng tư cách của một người thầy khi tư cách ấy bị xúc phạm vì sự võ đoán?!
Sai lầm về cảm tính của ông, theo tôi, là do ông có những “lỗ hổng” trong cuộc đời về phương diện tâm lý, nhất là sự kiện ông học Sixième (Ðệ Thất) mà nhẩy ba lớp để thi Brevet, tức Trung Học Ðệ Nhất Cấp theo chương trình giáo dục Pháp, là kỳ thi cuối năm Troisième (Ðệ Tứ).
Nhưng gần gụi ông mới thấy ông có tâm hồn nghệ sĩ. Như đang làm việc tại Văn Phòng Ban Sử ÐHVK Sài Gòn - ông là Trưởng Ban nên ngày nào cũng có mặt, còn tôi, ngoài việc giảng dạy, tôi phụ trách Thư Viện của Ban- ông lại rủ mọi người ra tiệm Brodard đường Catinat uống cà phê ăn bánh và nghe nhạc Pháp. Hay chuyện ông chia sẻ về đời sống sinh viên nghèo ở Paris, cả đám mặc quần jeans lâu và... bẩn đến độ cởi ra thì quần vẫn đứng thẳng!
Giáo sư Nguyễn Thế Anh sinh ngày 1 tháng 6 năm 1936 tại Ai Lao. Thời Việt Nam Cộng Hoà, ông về nước sau khi tốt nghiệp Thạc Sĩ Sử tại École Normale Superieure, rue d’ Ulm, tức trường Ðại Học Sư Phạm nổi tiếng của Pháp, và tiến sĩ đệ tam cấp tại đại học Sorbonne Paris. Ông được bổ nhiệm làm Viện Trưởng Viện Ðại Học Huế trong thời gian 1966-1969 khi tuổi đời vừa đúng 30. Sau đó, ông về Ðại Học Văn Khoa Sài Gòn làm Trưởng Ban Sử cho đến chiều ngày Thứ Ba, 23.4.1975, ông bỏ đi không một lời từ giã.
Di tản khỏi Việt Nam thì ông về Institute of Southeast Asian Studies tại Singapore làm học giả biệt thỉnh (visiting scholar) rồi làm giáo sư thỉnh giảng (visiting professor) tại đại học Harvard Hoa Kỳ.
Sau đó, ông định cư tại Pháp. Ông trình luận án Docteur es Lettres et Sciences Humaines, (thay cho Docteur d’État trước đây), tại Trường Paris-Sorbonne năm 1987 với đề tài La monarchie des Nguyễn de la mort de Tự-Ðức à 1925, 744 trang. Năm 1991, Giáo sư Nguyễn Thế Anh giữ ghế Giám Ðốc Trung Tâm Lịch Sử và Văn Minh Ðông Dương (Centre d’Histoire et Civilisations de la Peninsule Indochinoise) tại Ecole Pratique des Hautes Etudes (EPHE), Paris-Sorbonne, và vào ngạch Giáo Sư Thực Thụ từ năm 2005. Ông về hưu năm 2008.
Có lẽ chúng ta phải cám ơn Nguyễn Dương Ðôn, vị Bộ Trưởng Bộ Quốc Gia Giáo Dục và Thanh Niên trong nội các đầu tiên của nền đệ nhất Cộng Hòa, người đã khuyên du học sinh Nguyễn Thế Anh nên học ngành Khoa Học Xã Hội khi được học bổng du học Pháp, nên ngày nay người Việt chúng ta mới có một sử gia nổi tiếng trên thế giới.
Từ năm 1965 đến năm 2014, giáo sư Nguyễn Thế Anh đã hoàn tất 20 sử phẩm ấn hành tại VNCH và Pháp, 159 chuyên luận trong các tạp chí chuyên môn hay giới thiệu sách tại 13 quốc gia bao gồm Việt Nam, Pháp, Mỹ, Anh, Ý, La Mã, Nhật, Nga, Úc, Ðức, Ðại Hàn, Mã Lai Á, và Singapore. Ngoài ra, giáo sư Nguyễn Thế Anh còn đóng góp vào công cuộc phân tích sử phẩm, mà danh sách lên tới 33 bài. Các công trình này được hoàn thành qua bẩy ngôn ngữ khác nhau, là Việt, Pháp, Anh, Ý, Nhật, Nga, và Mã Lai[2].
Thư mục này là lời giới thiệu đầy đủ nhất về sự nghiệp của một sử gia thế kỷ. Không một khía cạnh nào của ngành Sử mà ông không trình bầy hay viết đến. Từ văn khố đến các nguồn sử liệu, từ lịch sử thế giới đến lịch sử quốc gia, từ lịch sử kinh tế đến xã hội, từ lịch sử ngoại giao đến chính trị, từ giáo dục đến văn học, từ mỹ thuật đến văn minh, từ tôn giáo đến phong tục, từ Việt Nam thời Pháp thuộc đến Việt Nam ngày nay. Nhưng trên hết và sâu sắc tỉ mỉ phong phú nhất, ông là sử gia về triều Nguyễn.
Có ba tác phẩm chính của sử gia Nguyễn Thế Anh. Đó là Bibliographie Critique sur les Relations Entre le Viet-Nam et l'Occident (1964), La Monarchie des Nguyễn de la Mort de Tự-Đức à 1925 (1987), và Parcours d' Un Historien du Viêt Nam (2008).
Hai tác phẩm trước là những luận án Tiến Sĩ Đệ Tam Cấp trình tại Sorbonne năm 1964 và luận án Tiến Sĩ Quốc Gia trình tại Paris-Sorbonne năm 1987. Tác phẩm thứ́ ba là một hợp tuyển gồm 99 bài viết bằng Pháp, Anh, và Việt ngữ của giáo sư Nguyễn Thế Anh do Philippe Papin, môn sinh và thành viên Viện Viễn Đông Bác Cổ (EFEO) tại Hà Nội sau 1975, sưu tầm và tuyển chọn. Papin đã hệ-thống-hóa hợp tuyển thành 9 đề mục chính, cốt nêu bật sự uyên bác của một sử gia bậc thầy quốc tế: Lịch sử ngoại giao và bang giao quốc tế, Lịch sử kinh tế và xã hội, Lịch sử chính trị và ý thức hệ, Lịch sử tín ngưỡng và phong tục, Tổng hợp lịch sử và lịch sử thế giới, Lịch sử giáo dục, Khổng giáo và các trào lưu tư tưởng, Lịch sử mỹ thuật, văn hoá và văn học, Nguồn sử liệu, văn khố và tài liệu lịch sử, và cuối cùng là Các ghi chú và các bài giới thiệu sách.
Hợp tuyển 99 chuyên luận Sử Học của Giáo sư Nguyễn Thế Anh do Philippe Papin sưu tầm và ấn hành tại Paris năm 2008, 1025 tr. (Tủ sách TAT).
Nhận định về hợp tuyển do chính mình sưu tầm qua các sách báo tạp chí nay đã khó tìm hay đã đình bản, sử gia Philippe Papin đã ghi những dòng chữ, theo tôi là chính xác, nơi trang bìa sau của tác phẩm, đại ý mỗi bài viết của giáo sư Nguyễn Thế Anh là một chuyên luận, mỗi chuyên luận là một phát kiến mới (avancée), và dần dần các phát kiến mới tạo thành một biểu nhất lãm giúp độc giả nắm bắt được cái viễn tượng cụ thể về lịch sử dài lâu của Việt Nam và các lân bang.
Khối óc của giáo sư Nguyễn Thế Anh là sự hội tụ của hai khả năng phân tích và tổng hợp nhuần nhuyễn một cách tự nhiên. Sự thông thái và khúc chiết của ông tỏ lộ rõ nhất khi ông khai thác một tài liệu sử. Những ai may mắn thụ giáo với ông đều giữ trong lòng cái ấn tượng của sự thông thái và sự khúc chiết ấy, đồng thời cũng là sự... khó khăn khi tiếp xúc! Tuy nhiên, với những ai mà ông hiểu rõ khả năng thì ông nâng đỡ vô vị lợi, lại gần gũi và lịch sự như Tây. Chi tiết cá nhân về giáo sư Nguyễn Thế Anh trong bài này chính là những chia sẻ của ông khi Văn Phòng Ban Sử chỉ có hai thầy trò chúng tôi trong những năm 1972-75. Nắng Sài Gòn thì Ban Sử đã có máy lạnh, nước ướp lạnh hay trà tầu, thầy ống vố trò thuốc lá ngồi đối diện nhau trong bộ bàn ghế đặt giữa phòng. Đó là những ngày êm đềm và sảng khoái của một đời người!
Cuộc đời dạy học của ông bao gồm những trường đại học nổi tiếng tại Việt Nam như Ðại Học Văn Khoa Sài Gòn, tại Hoa Kỳ như Ðại Học Harvard, và tại Pháp như Ðại Học Sorbonne. Ông đào tạo biết bao cử nhân, cao học, và tiến sĩ Sử Học cho Việt Nam và nhất là cho thế giới. Trong thập niên 1960-70 tại Đại Học Văn Khoa Sài Gòn, giáo sư Nguyễn Thế Anh có bốn môn sinh đắc ý là Trương Ngọc Phú (Đại Học Huế́), Hà Mai Phương (trung học Đà Lạt), Tạ Chí Đại Trường (trung học Tân An), và Trần Anh Tuấn.
Năm 2008 khi giáo sư Nguyễn Thế Anh về hưu thì một số đồng nghiệp và môn sinh thuộc nhiều quốc tịch đã tôn vinh ông theo truyền thống của các viện đại học Âu châu, Mỹ Châu, và cả Á Châu nữa. Ðó là xuất bản một tuyển tập trong đó mỗi người đóng góp một chuyên luận hoặc một bài nhận xét về đương sự.
Tuyển tập tôn vinh giáo sư Nguyễn Thế Anh có tựa đề Monde du Viet Nam. Vietnam World. Hommage à Nguyên Thê Anh do hai học giả Pháp (Frédéric Mantienne) và Mỹ (Keith W. Taylor) chủ biên. Sách dầy tới 541 trang do nhà xuất bản Les Indes Savantes ở Pháp ấn hành năm 2008.
Ðây là sự kiện đầu tiên và duy nhất trong lịch sử sử học xưa nay mà một sử gia gốc Việt được giới sử gia thế giới tôn kính và ca tụng. Nói “quốc tế” vì những người góp bài trong tuyển tập vinh danh mang nhiều quốc tịch, là Pháp, Mỹ, Anh, Hung Gia Lợi, Nhật, Trung Hoa, Ðại Hàn, Mã Lai Á, và một số sử gia gốc Việt tại Pháp, Mỹ, và Canada. Danh sách 22 tác giả xếp theo thứ tự tên gọi là Alain Forest, Andrew Hardy, Le Huu Khoa, Philippe Langlet, Thanh Tam Langlet, Bruce M. Lockhart, Frédéric Mantienne, Patrice Morlat, Philippe Papin, Emmanuel Poisson, Claudine Salmon, Masaya Shiraishi, Vinh Sinh, Francois Souty, Keith W. Taylor, Trinh Van Thao, Patrick Tuck, Léon Vandermeersch, Gábor Vargyas, Geoff Wade, Danny Wong Tze-Ken, và Insun Yu.
Alain Forest, giáo sư lão thành tại đại học Paris VII, có chuyên luận tựa đề “De l’extention ou de la contraction des territoires (Viêtnam et Cambodge),” tt. 315-327 như cách vinh danh một đồng nghiệp sau lời tựa tuyệt vời -nguyên văn: “son excellent avant-propos”- của giáo sư Nguyễn Thế Anh về tác phẩm Le Dai Viet et ses Voisins do Bùi Quang Tung và Nguyên Hương dịch (Paris, nxb L’Harmattan, 1990).
Andrew Hardy góp phần vinh danh giáo sư Nguyễn Thế Anh qua thiên nghiên cứu về cộng đồng người Việt tại Thái Lan, tựa đề “People In-Between; Exile and Memory among the Vietnamese in Thailand. Research note,” tt. 271- 293. Nhưng đây không phải là cộng đồng tỵ nạn sau năm 1975, mà là cộng đồng gốc Việt lập cư tại Thái Lan từ thập niên 1940 thời Pháp thuộc, chịu nhiều ảnh hưởng của Hồ Chí Minh. Andrew Hardy là một cựu môn sinh của giáo sư Nguyễn Thế Anh và từng là Giám Ðốc EFEO tại Hà Nội.
Le Huu Khoa đóng góp “Bouddhisme, confucianisme, taoisme: à propos de l’autorité,” tt. 447- 468. Hệ tư tưởng Việt Nam qua các triều đại trong lịch sử Việt Nam là chủ đề mà giáo sư Nguyễn Thế Anh và tác giả -một đồng nghiệp gốc Việt tại đại học Pháp- thường trao đổi. Chuyên luận này chính là quan điểm của tác giả về vấn đề mà cả hai quan tâm. Le Huu Khoa là giáo sư đại học Lille, Pháp.
Philippe Langlet là đồng nghiệp với giáo sư Nguyễn Thế Anh từ Ðại Học Văn Khoa Sài Gòn trước tháng Tư năm 1975. Ông đóng góp một đề tài trong chuyên môn quen thuộc của ông, là dịch và phân tích tài liệu sử thời Nguyễn, tựa đề «Lecture de deux rapports dans les archives du règne Tự Ðức (1868),» tt. 197-243. Chuyên luận này có điều rất đặc biệt, là lần đầu tiên tôi thấy nguyên tác từng chữ Hán có chữ Việt tương đương nằm cạnh nhau trong một bài nghiên cứu. Giáo sư Langlet đã mất, người hiền lành, nói năng nhỏ nhẹ, làm việc chăm chỉ và chắc chắn nhưng không được cuốn hút hay hào hứng.
Thanh Tam Langlet cũng là giáo sư đồng nghiệp với giáo sư Nguyễn Thế Anh từ Ðại Học Văn Khoa Sài Gòn, tức giáo sư Quách Thanh Tâm. Bà giảng dạy bên Ban Ðịa Lý, và là phu nhân của giáo sư Philippe Langlet. Bài viết của bà có tên «Littérature ancienne du Vietnam. Approche de la pensée bouddhiste dans les écrits des moines de l’époque Lý-Trần, Xe-XIVe Siècle,» tt. 469-503. Nội dung bài viết có lẽ thích hợp với độc giả Âu Mỹ hơn, vì đề tài văn học cổ này không có gì mới lạ với những người Việt hay gốc Việt đã có căn bản Việt học.
Hình bìa quyển sách giới Sử Học quốc tế vinh danh Giáo sư Nguyễn Thế Anh xuất bản tại Paris năm 2008, 541 tr.(Tủ sách TAT).
Trong tuyển tập này, Bruce M. Lockhart ca tụng luận án tiến sĩ quốc gia của giáo sư Nguyễn Thế Anh đã đưa triều Nguyễn vào lịch sử sử học, vốn trước đó chưa được ai nghiên cứu tường tận. Ðó là nội dung của chuyên luận «Vue d’ensemble sur l’étude des Nguyễn depuis 1954,» tt. 13-25.
Frédéric Mantienne, cựu môn sinh, giám đốc nhà Les Indes Savantes chuyên xuất bản luận án tiến sĩ và những công trình nghiên cứu Á Châu tại Pháp, ghi nhận các tài liệu in tại Pháp trong thế kỷ XVIII về nước Việt như tiếp bước giáo sư Nguyễn Thế Anh, vốn là một nhà thư tịch học với luận án tiến sĩ đệ tam cấp Bibliographie Crittique sur les Relations Entre le Viet-Nam et l’Occident (Ouvrages et Articles en Langues Occidentales). (Paris, G.-P. Maisonneuve&Larose, 1967, 310 tr.). Chuyên luận của Frédéric Mantienne có tựa đề “Les sources imprimées sur le Dai Viet en France au XVIIIe siècle,” tt. 63-112.
Trong tuyển tập này, Patrice Morlat, đồng nghiệp, bàn về Phạm Quỳnh với đề tài “La place de Pham Quynh dans le projet colonial francais au Vietnam,” tt. 253- 270. Chuyên luận tương đối ngắn, nhưng xúc tích và đầy đủ mọi khía cạnh về nhân vật Phạm Quỳnh, bắt đầu với vị trí của nước Việt trong hệ thống thuộc địa Pháp, rồi bàn rõ nhân vật Phạm Quỳnh từ khi sinh ra năm 1892 cho đến khi bị Cộng Sản sát hại năm 1945. Chuyên luận bao gồm nhiều sự kiện về sự liên hệ Phạm Quỳnh với Louis Marty, tư tưởng Phạm Quỳnh cùng vai trò và sự đóng góp của Phạm Quỳnh vào những sinh hoạt xã hội, nhất là trong sự phát triển chữ quốc ngữ đầu thế kỷ XX. Ðộc giả có thể biết nhiều chi tiết lý thú về Phạm Quỳnh như tên đầy đủ là Phạm Huy Quỳnh, mồ côi mẹ lúc 9 tháng và mồ côi cha lúc 9 tuổi, lớn lên là do bà nuôi dưỡng...
Philippe Papin, cựu môn sinh và là người kế vị giáo sư Nguyễn Thế Anh tại trường EPHE, đã theo truyền thống Nguyễn Thế Anh, là căn cứ vào tài liệu đầu tay mà sử gia tìm ra để tái lập các sự kiện đã qua nhằm trình bầy quá khứ một cách rành mạch và rõ ràng. Ðây là phong cách làm việc trái với cách làm việc của nhiều người Việt viết sử, vốn chỉ quen đọc năm ba quyển sách của những tác giả trước đó, rồi rút chi tiết chế biến thành một quyển sách mới. Chuyên luận của Philippe Papin «Un temps pour payer, l’éternité pour se souvenir, premiers jalons d’une histoire des donations intéressées dans les campagnes vietnamiennes,» tt. 113-141 căn cứ vào những thác bản văn bia là những tài liệu sử chưa có ai khai thác, và vì thế mà đề tài mới lạ, giải thích tâm thức của giới người Việt vô hậu, tức không có con cháu nối dõi muốn để lại dấu vết hiện hữu của họ cho đời. Sử gia Philippe Papin từng là thành viên (Giám Ðốc?) Viện Viễn Đông Bác Cổ (EFEO) tại Hà Nội suốt thập niên 1995-2005.
Emmanuel Poisson, cựu môn sinh, giáo sư tại đại học Paris 7, đóng góp «Les confins septentrionaux du Việt Nam et leur administration, » tt. 329-339, tiếp bước giáo sư Nguyễn Thế Anh về vấn đề biên giới Việt-Hoa, đề tài mà vị giáo sư của tác giả quan tâm.
Claudine Salmon và Tạ Trọng Hiệp có đề tài “Lí Văn Phức et sa découverte de la Cité du Bengale (1830),” tt. 143- 195. Tôi ngạc nhiên thấy tên Tạ Trọng Hiệp trong tuyển tập xuất bản năm 2008 này, vì họ Tạ đã qua đời từ năm 1996. Ðọc vào bài mới biết là đồng tác giả Claudine Salmon biết giáo sư Nguyễn Thế Anh, một đồng nghiệp của bà, đã tiếc công trình của hai người phải dở dang dự án này khi Tạ Trọng Hiệp mất, cho nên bà đã cố hoàn thành công việc để góp phần vào tuyển tập, nguyên văn bà viết: «Monsieur Nguyễn Thế Anh, à qui nous avions parlé de cette traduction inachevée, ayant exprimé ses regrets de la voir ainsi abandonnée, nous avons décidé de la reprendre et de la mener jusqu’au bout.» Ðó là bản dịch và chú giải sang Pháp văn tập Tây Hành Kiến Văn Kỉ Lược do Lí Văn Phức soạn sau chuyến đi sứ sang Bengal (tức Calcutta) năm 1830.
Masaya Shiraishi là một học giả Nhật chuyên về bang giao Nhật-Việt từ sau Ðệ Nhị Thế Chiến và về phong trào Ðông Du với Phan Bội Châu. Sử dụng tài liệu văn khố Nhật, Masaya Shiraishi bàn về Nan’yo Gakuin, tức Viện Ðông Hải do Nhật Bản thiết lập ở Sài Gòn năm 1942. Tựa đề «The Nan’yo Gakuin: a Japanese institute in Saigon from 1942 to 1945,” ttr. 295-314, chuyên luận chỉ ra hệ thống tổ chức, chương trình huấn luyện, thành phần nhân sự... Nhưng đọc hết bản chuyên luận với nhiều chi tiết và thống kê cụ thể, tôi có cảm tưởng tác giả hoặc vô tình hoặc cố ý tránh đề cập đến mục đích thực sự, điểm mấu chốt, của sự thiết lập một học viện Nhật tại Sài Gòn. Hãy hình dung việc mở trường huấn luyện, đem học viên Nhật và ban giáo sư từ Nhật sang, chính phủ Nhật tài trợ chi phí... tất cả chỉ nhằm đào tạo người làm thương mại ở Việt Nam thôi sao? Có liên hệ gì không, khi năm 1942 học viện Nhật Bản này thành lập tại Việt Nam thì năm 1945 quân đội Nhật Bản đảo chánh Pháp làm chủ bán đảo Ðông Dương?!
Vĩnh Sính, giáo sư đại học Alberta, Canada, có “Phan-Châu-Trinh and his concept of popular rights in Vietnam,” ttr. 423- 445. Thật không hiểu danh từ “popular rights” mà tác giả sử dụng là nghĩa gì. Ðến cuối bài viết mới tìm thấy danh từ tiếng Việt, là «dân quyền.” Phải chăng tác giả gốc Việt lập cư ở Canada này cố ý tránh từ ngữ có thể làm trong nước không hài lòng, là “civil rights, human rights?” Về nội dung, bài viết này giúp độc giả những nét tiểu sử và tư tưởng Phan Châu Trinh so sánh với học giả Trung Hoa và Nhật Bản đương thời. Ðó là điểm mới mẻ của bài viết.
Francois Souty, đồng nghiệp, giáo sư đại học La Rochelle, riêng biệt với một đề tài về thuộc địa của Hoà Lan: “Plantages, Free Trade and Polderization: the Dynamics of the Economy in Dutch Guiana (Demerary, Essequibo, and Berbice) in the 18th Century (1680-1789),” tt. 407-421. Sự tương hợp của đề tài này, khác lạ với đề tài của những chuyên luận khác trong tuyển tập, chính là sự khai thác tài liệu đầu tay để làm lộ ra những sự kiện mới mẻ trong quá khứ theo truyền thống Nguyễn Thế Anh!
Keith W. Taylor đầy tự tin trong một đề tài đặc biệt Ðông Phương. Ðó là thi/thơ, tức “Shi/Thi in the South: A Common Sino-Vietnamese Poetic Legacy,” tt. 525-536. Nhưng đọc bài viết của một anh Mỹ tán về ý nghĩa thơ Việt Nam để nối kết thơ Hồ Chí Minh thế kỷ XX, tức năm 1942-43 với nhà thơ sớm nhất của đất Giao Chỉ (?) là Lưu Hữu Phưong (Liao Youfeng) thế kỷ thứ IX, cụ thể là năm 815, tôi không khỏi... cảm phục sự liều lĩnh của một người Tây Phương tưởng mình đã len lỏi được vào tâm thức Ðông Phương!
Trinh Van Thao, giáo sư tại đại học Aix-Marseille, trực tiếp vinh danh đồng nghiệp họ Nguyễn qua việc tổng kết công trình nghiên cứu của giáo sư Nguyễn Thế Anh nhằm làm nổi bật sự đóng góp lớn lao và sâu sắc của sử gia họ Nguyễn vào lịch sử Ðông Á và Việt Nam. Đóng góp của Trinh Van Thao có tựa đề “Lire Nguyên Thê Anh, À la recherche d'une monarchie perdue,” tt. 27-39.
Chuyên luận của Patrick Tuck, đồng nghiệp, giáo sư đại học Liverpool, là chi tiết về sự sống còn của các quốc gia Ðông Nam Á trước nạn đế quốc, trong trường hợp này là Thái Lan với hai đế quốc Anh và Pháp. Chính quyền Thái đã áp dụng một cách khôn khéo và uyển chuyển chính sách hợp tác với đế quốc Anh và cứng rắn -với sự trợ giúp phần nào của đế quốc Anh- chống lại mọi toan tính tấn công, dù là quân sự, chính trị, hay ngoại giao... của Pháp để duy trì sự tự trị. Đó là chuyên luận “Imperialism and Indigenous Strategies for Political Survival in Mainland Southeast Asia, 1850-1914: the Case of Siam,” tt. 385-406.
Léon Vandermeersch, giáo sư kỳ cựu của đại học Sorbonne về Ðông Phương học, là thế hệ giáo sư Sorbonne trước Nguyễn Thế Anh, đóng góp bản dịch và chú giải một tài liệu chữ Hán về cuộc du hành của nhân vật có tên Zheng Gongying đến Việt Nam một cách bí mật trong hai tháng (11.6 đến 11.8.1884). Đó là “Une note chinoise de 1884 sur l'Histoire du Vietnam,” tt. 243-251.
Gábor Vargyas, đồng nghiệp, giáo sư đại học Pecs, Hung Gia Lợi, đóng góp thiên nghiên cứu về sắc tộc Bru, tức Vân Kiều qua đề tài “Quiconque voulait s’imposer à nous, nous avons accepté son pouvoir,” tt. 341-369. Ðây là một chuyên luận tương đối ngắn, nhưng đầy đủ chi tiết về sắc tộc Vân Kiều ở vùng Trường Sơn qua địa bàn sinh hoạt, dân số, ngôn ngữ, văn hoá, lịch sử... từ một chuyên viên. Danh xưng “chuyên viên về sắc tộc Vân Kiều” dành cho vị giáo sư này rất xứng đáng, vì chưa đến một thập niên (1993-2001), Vargyas đã hoàn tất 11 chuyên luận về đề tài này.
Geoff Wade là chuyên viên nghiên cứu tại đại học Hong Kong và Singapore, lên tiếng khâm phục sự quảng bác của giáo sư Nguyễn Thế Anh về nghiên cứu Chàm. Chuyên luận của tác giả vào tuyển tập này chính là để tỏ lòng mến mộ giáo sư Nguyễn Thế Anh mà ông mệnh danh là một trong những chính nhân của thời đại, nguyên văn: “one of the gentlemen of our age.”Chuyên luận của Wade, tựa đề “The Ming shi Account of Champa,” tt. 41-61, là bản dịch và chú giải phần Chiêm Thành trong Minh Sử (Ming Shi). Ðây là đóng góp mới nhất trong ngành nghiên cứu Chàm, và sẽ là một tài liệu gốc cho mọi tham khảo sau này.
Danny Wong Tze-Ken, cựu môn sinh, giáo sư đại học Malaysia, là tác giả của “The Nguyen Lords and the English Factory on Pulo Condore at the Beginning of 18th Century,” tt. 371- 384. Chuyên luận giải thích bang giao quốc tế thời các chúa Nguyễn căn cứ vào nhiều nguồn tài liệu đầu tay khác nhau theo truyền thống Nguyễn Thế Anh.
Insun Yu, đồng nghiệp, giáo sư đại học quốc gia Seoul, viết “Myth and Reality: The Confucian Influence on Northern Vietnamese Society during the Le Dynasty (1428-1788),” tt. 505- 524. Giáo sư Insun Yu chi tiết sự chuyển hướng của chính quyền trung ương thời Hậu Lê áp dụng hệ thống Khổng học vào chính quyền, thay thế hệ thống Phật học thời Lý Trần trước đó. Bằng chứng rõ rệt nhất là việc mở các khoa thi kén chọn người vào hệ thống quan lại thì hai triều Lý Trần mở rất ít, còn triều Lê và Nguyễn sau này thì thường xuyên ba năm một lần.
Nhưng đạo Phật là đạo xuất thế, lấy việc cá nhân tu hành là chính. Ðạo Khổng mới là một hệ thống xã hội, là nền tảng lý thuyết cho sự cai trị của chế độ quân chủ tại Trung Hoa, Việt Nam... Cho nên, theo tôi, so sánh ảnh hưởng của Phật học và Khổng học trong lịch sử Việt Nam thì chỉ có thể kết luận thời Lý Trần thì đạo Phật được trọng vọng, đến thời Hậu Lê và Nguyễn sau này thì ảnh hưởng đạo Phật trong xã hội bị sút kém hẳn. Và trong xã hội sau thời Lý Trần thì giới nho sĩ thường lấy tăng lữ làm đối tượng chế diễu.
Ý nghĩa nhất của hợp tuyển 541 trang này là câu kết luận trong phần giới thiệu do sử gia Mỹ Keith Weller Taylor, giáo sư đại học Cornell, chuyên về cổ sử Việt Nam với luận án The Birth of Vietnam (Berkeley, University of California Press, 1983, 399 tr.) thể hiện.
Ông đã thay mặt những sử gia quốc tế khác diễn tả tâm tư tình cảm của tất cả đối với vị giáo sư gốc Việt, nguyên văn nơi trang 11: “It is with gratitude for the life and work of Nguyen The Anh that the essays in this volume are presented to him and in his honor, with the hope that, despite the imperfections of our endeavours, we may nonetheless hereby bear witness to the presence of a great scholar in our generation.”
Tôi tạm dịch: “Chính vì sự biết ơn về cuộc đời và sự nghiệp của Nguyễn Thế Anh mà những chuyên luận trong bộ sách này xin được dâng tặng ông và vì danh dự của ông, với hy vọng rằng, mặc dù sự bất toàn trong những cố gắng của chúng tôi, chúng tôi dẫu sao cũng chứng kiến được sự hiện hữu của một vị học giả lớn trong thế hệ chúng tôi.”
Trong lịch sử sử học Việt Nam từ xưa đến nay, chưa một nhà nghiên cứu nào được các sử gia thuộc nhiều quốc tịch khác nhau trên thế giới hợp nhau lại để vinh danh với ngôn từ trang trọng đến thế. Ðiều này vượt trên danh dự của một cá nhân, là danh dự của cả một giới, giới sử học Việt Nam Cộng Hoà!
Riêng tôi, vừa là một môn đệ, học nơi ông những căn bản của sự khai thác tài liệu, vừa là một độc giả của ông, tôi nhận thấy giáo sư Nguyễn Thế Anh vì được đào tạo tại Pháp, nơi nghề Sử có truyền thống khách quan đến vô tổ quốc, nên những thành tựu nghiên cứu của ông quả thật rất sâu sắc và phong phú, các sự kiện quá khứ được tái hiện rất rõ ràng và cụ thể, nhưng đồng thời, rất lạnh lùng. Ðiều này rất phù hợp với giới nghiên cứu Âu Mỹ, và giải thích vai trò hàng đầu của ông trong giới sử học quốc tế về Việt Nam.
Cũng vì xuất thân như thế, giáo sư Nguyễn Thế Anh đã ngỏ lời chê nội dung của Dòng Sử Việt, một chuyên san Sử Học do tôi chủ trì trong các năm 2006-07. Trong một điện thư gửi cho tôi ngày Thứ Năm 19.7.2007 ông viết, nguyên văn: “Báo in đẹp, trình bầy trang nhã, là một đóng góp đáng kể cho việc phát triển ngành sử Việt.” Khen ngợi hình thức mà không đề cập đến nội dung có thể là một cách chê bai tế nhị, theo tôi nghĩ. Nhân đây, độc giả nào “tò mò” muốn biết nội dung bộ Dòng Sử Việt dở như thế nào, xin gửi US$50.00 và bưu cước cho toàn bộ 5 quyển Dòng Sử Việt của tôi.
Hồi đó, tôi không phát hành Dòng Sử Việt một cách bừa bãi. Tôi chỉ gửi cho nhà sách Tự Do ở Bắc California và nhà sách Văn Khoa tại Nam California. Cả hai nhà đều có những kỷ niệm riêng với tôi. Với Bắc Cali, tôi chỉ lấy 50% trên giá bìa, nhưng ông chủ nhà sách Tự Do nhất định trả tôi 70%. Với Nam Cali, một hôm tôi xuống chơi và đến khu Phước Lộc Thọ ở thành phố Westminster thì nhà sách Văn Khoa, vốn nhiều lần liên lạc lấy thêm sách và trả tiền sòng phắng, đã biến mất tự bao giờ, khiến tôi phải ngỡ ngàng!
Trở về với giáo sư Nguyễn Thế Anh, dù tình cảm cá nhân của ai và thế nào đi nữa, giá trị thật vẫn là giá trị thật. Tôi trình bầy công nghiệp của người mà tôi nhận định là sử gia của hậu bán thế kỷ XX, nhân nhìn lại toàn diện công cuộc nghiên cứu sử Việt tại Bắc Mỹ trong bốn thập niên qua. Vị sử gia của tiền bán thế kỷ là Trần Trọng Kim.
Tôi tự hỏi, giới nghiên cứu Sử người Việt ngày nay, tại hải ngoại cũng như trong nước, đã mấy ai biết đến tác phẩm Monde du Việt Nam. Vietnam World. Hommage à Nguyên Thê Anh là tác phẩm hơn 500 trang thế giới vinh danh một sử gia gốc Việt đương thời, và Parcours d’Un Historien du Viêt-Nam là hợp tuyển những chuyên luận hơn 1,000 trang của sử gia ấy, năm 2008?
(Trích trong Sử Việt Tại Bắc Mỹ (1975-2015) sắp xuất bản).
─────────────
[1] Société des Études Indochinoises (SEI) mà danh xưng Việt ngữ là Hội Cổ Học Ấn Hoa hay Hội Nghiên Cứu Đông Dương là một hội bác học (savante) được thành lập năm 1883 tại Sài Gòn. Đại đa số hội viên là những viên chức cao cấp trong guồng máy cai trị Pháp tại Nam Kỳ, một số ít là viên chức ở Huế và Bắc Kỳ. Tạp chí của Hội, tức Bulletin de la Société des Études Indochinoises (BSEI) cũng bắt đầu năm 1883 được phát hành liên tục cho đến năm 1975. Chuyên san BSEI là cả một kho tài liệu về Việt Nam, nhất là về phần đất Nam Kỳ. Thư viện của Hội có hơn 6,200 tác phẩm hiếm quý cùng hơn 300 bộ chuyên san về Viễn Đông. Xin kể qua vài tác phẩm và chuyên san hiếm quý tôi từng nâng niu trên tay (nâng niu, gượng nhẹ, và rất cẩn thận vì giấy qua hàng thế kỷ hay lâu hơn nữa đã trở nên dòn rất dễ rách vụn dù trụ sở của Hội SEI đã có máy điều hòa không khí, nhất là những số đầu của BEFEO): Dictionarivm Annamiticvm Lvsitanvm et Latinvm (tức Tự Điển Việt Bồ La, 1651) và Catechismes (1651) của Alexandre de Rhodes, Le Voyage à la Cochinchine (1807) của John Barrow do Malte-Brun dịch sang Pháp văn, A Voyage to Cochinchine (1824) của John White, Cours d'Administration Annamite (1864) của Luro, thư từ, bản thảo, sách in, cùng tài liệu của và về Trương Vĩnh Ký đựng trong hai kẹp giấy dầy khoảng ba tấc. Đó là sách, chuyên san thì tạm kể vài bộ: bộ Bulletin de la Société des Études Indochinoises (BSEI, 1883-1975), bộ Bulletin de l'École Francaise d'Extreme-Orient (BEFEO, 1901-1975), bộ Bulletin des Amis du Vieux Hué (BAVH, 1914-1941)... Năm 1929, hội SEI hiến tặng tất cả cổ vật của Hội cho nhà cầm quyền để thành lập một viện bảo tàng. Đó chính là Viện Bảo Tàng Sài Gòn trong Thảo Cầm Viên, khánh thành ngày 1.11.1929 với tên gọi VBT Blanchard de la Brosse, tên vị thống đốc bấy giờ.
[2] Thư mục đầy đủ về Giáo sư Nguyễn Thế Anh sẽ được giới thiệu trong tác phẩm Sử Việt Tại Bắc Mỹ (1975-2015).