Nixon: phản bạn, phản bội và “phản quốc”?

“Hả,không. Chúa ơi, tôi không bao giờ lại đi xúi Sài Gònđừng ngồi vào bàn đàm phán. Lạy Chúa chúng tamuốn họ qua Paris, chúng ta phải đưa họ sangParis, nếu không sẽ không có hoà bình.” – Richard M. Nixon,ứng cử viên Tổng thống Mỹ, 1968.

Viết để nhớ về tấtcả quân cán chính đã phục vụ và bảo vệngười dân miền Nam Việt Nam từ 1954 đến1975.





Nixon đi buôn lậu với Việt NamCộng hoà cuối mùa bầu cử Tổng thốngMỹ năm 1968

Tin Tổng thống Johnson không tái tranh cử. Nguồn:© CORBIS

1968 – Cách đây gần 50 năm, ngày 31 tháng 3,Tổng thống Hoa Kỳ Lyndon Baines Johnson lên đàitruyền hình quốc gia công bố, “Tôi sẽ khôngmuốn, và tôi sẽ không nhận, sự đề cửcủa đảng [Cộng hoà] để tôi [ra tranhcử] một nhiệm kỳ nữa làm Tổng thống củađồng bào.”

Nhưng Johnson còn tuyên bố mộtđiểm quan trọng khác: ông sẽ chấm dứtchiến tranh Việt Nam trước khi chấm dứtnhiệm kỳ. Từ khi đắc cử Tổngthống năm 1964, Johnson đã leo thang chiến tranh tạiViệt Nam, đưa ra trận thêm 550,000 lính Mỹ vàmở cuộc oanh tạc lớn chưa từng thấyở miền Bắc Vệt Nam, Chiến dịch SấmRền (Operation Rolling Thunder).

Dù đã đổ nhiều xương máu,cuối cùng Johnson đã phải đi đến kếtluận chiến thắng quân sự ở Việt Nam làchuyện không thực tế và đã ra lệnh ngưng oanhtạc trên 90% lãnh thổ Bắc Việt và hứa sẽngưng bỏ bom ở miền Bắc nếu BắcViệt bày tỏ thiện chí muốn có hoà bình. Dù giớiphê bình Chiến tranh Việt Nam nghi ngờ sáng kiến hoàbình của Johnson, nhưng tài liệu lịch sử đãchứng minh ông thực sự muốn có một lối choHoa Kỳ thoát ra khỏi cuộc chiến ở bên kiabờ Thái Bình Dương.

Lúc đó, một nhân vật không đảngphái, cố vấn cho đảng Cộng hoà, gọi choứng cử viên Tổng thống Nixon cho hay về mộtcuộc trao đổi đang xảy ra, nếu Johnsonngừng bỏ bom Bắc Việt thì Liên Xô hứa sẽđưa Hà Nội vào bàn hội nghị, đàm phánđể chấm dứt chiến tranh. Người báođộng hoà bình cho Nixon tên là Henry Kisinger. Trướcnhững gì triển vọng hoà bình ở Việt Nam cóthể ảnh hưởng đến cuộc tranh cửđang diễn ra, ứng cử viên Tổng thốngcủa Đảng Cộng hoà, ở đoạn cuốicuộc vận động, rẩt lo sợ mất vịtrí dẫn đầu, và vì thế đã ra lệnh chothuộc cấp tìm mọi cách làm cho cuộc đàm phán hoàbình giữa Hoa Thịnh Đốn và Hà Nội bếtắc.

31 tháng 10, năm ngày trước khi dân Mỹđi bầu, chọn Tổng thống thứ 37 của HoaKỳ, Lyndon Baines Johnson, Tổng thống đươngnhiệm, lên đài truyền hình công bố cho cảnước biết ông đã ra lệnh ngưng Chiếndịch Sấm Rền đúng ngày 1 tháng 11 – hoàn toànngừng bỏ bom ở Bắc Việt. Johnson đồngthời cho hay Hà Nội đồng ý sự có mặtcủa chính phủ Việt Nam Cộng Hoà tại cuộchoà đàm và Mỹ cũng công nhận “vai trò” củaMặt trận Dân tộc Giải phóng miền Nam (MTDTGPMN)dù hành động này “không liên quan đến sự côngnhận Mặt trận Giải phóng [là một thựcthể] dưới bất cứ hình thức nào”.Trước đây cả Bắc Việt và ViệtCộng đều không công nhận chính phủ Việt NamCộng hoà.

Ở Sài Gòn, Tổng thống Nguyễn VănThiệu đã ra thông cáo cho hay Mỹ đơnphương ngưng bỏ bom Bắc Việt.

Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu, 1968. Nguồn:Brandes Autographs

Vài ngày trước đó, cũng ở Sài Gòn,Beverly Deepe, một phóng viên của tờ Christian ScienceMonitor (CSM) bắt được một tin đã cóthể làm lịch sử thay đổi. Theo nguồncủa Deepe, từ phía Việt Nam Cộng hoà, thì Ban vậnđộng tranh cử của Richard Nixon đang hợp tácbí mật với chính phủ của Tổng thốngNguyễn Văn Thiệu nhằm cản trở cốgắng hoà đàm của Lyndon Johnson với Hà Nội.

Ngày 28 tháng 10 Deepe gởi mẩu tin sốcvề cho ban biên tập của CSM và yêu cầu kiểmchứng “tin cho rằng [Đại sứ Việt NamCộng hoà ở Mỹ] Bùi Diễm, đã đánhđiện cho Bộ Ngoại giao ở Sài Gòn hay vềcuộc gặp gỡ với Ban vận động tranhcử của Nixon”.

Ở thời điểm này có ½ triệu línhMỹ ở miền Nam, với hơn 30 ngàn ngườiđã tử trận, cuộc đình chiến có thểgiảm thiểu thương vong của ngườiMỹ cũng như người Việt. Nhưnghướng tiến đến hoà bình ngay lúc này cũngđồng nghĩa với việc Nixon sẽ thấtcử vào này 5 tháng 11, 1968.

Lịch sử trước một ngã rẽcó thể thay đổi nhưng nó đã không xảy ranhư thế. Xã hội Hoa Kỳ tiếp tục phân hoá,chia rẽ, người Mỹ và người Việtvẫn tiếp tục chết ở Việt Nam trongnhiều năm sau đó.

Deepe không nhận được hồi âmtừ ban biên tập CSM ở Mỹ ngay cả sau khi chínhphủ VNCH từ chối không tham dự hoà đàm ởParis. Rốt cuộc, ngày 4 tháng 11 (giờ Sài Gòn) Deepeviết một bản tin để gởi vềđăng ở Mỹ, bắt đầu bằngđoạn,

“Được biết sự ủng hộchính trị từ phía ban vận động tranh cửcủa Richard Nixon là một yếu tố quan trọng trongquyết định ở phút cuối cùng của Tổngthống [Nguyễn Văn] Thiệu từ chối khônggửi phái đoàn đến cuộc đàm phán hòa bình Parisít nhất là cho đến khi cuộc bầu cửTổng thống Mỹ đã xong.”

Ký giả Beverly Deepe phỏng vấn phụ nữViệt Nam (1962). Nguồn: AP

Năm 2012, trong một email riêng gởi choRobert Parry – ký giả điều tra của AP và Newsweek, sánglập viên Hội Ký giả Độc lập, mộtcơ sở thông tin bất vụ lợi ở Mỹ –Deepe cho hay ban biên tập CSM đã cắt bỏ đoạnnói về nhóm của Nixon hợp tác với chính phủở Sài Gòn, làm cho đoạn dẫn của bản tin diulại trước khi cho đăng. Lý do? Vì ban biên tậpđã không xác định được việc BùiDiễm đã có liên lạc với nhóm của Nixon và đãbáo cho Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hoà hay không.

Trong một hồ sơ đã giảimật, ở Thư viện Tổng tống LBJ ở Texas,mà Cố vấn An ninh Quốc gia, Walt Rostow, ghi dấu “Phongbì X” chính là nội dung câu chuyện phóng viên Beverly Deepe đãnghe được ở Sài Gòn.

Cùng lúc Deepe biết về chuyện điđêm giữa nhóm của ứng cử viên Nixon với chínhphủ VNCH ở Sài Gòn thì Tổng thống Johnson cũngđược FBI báo cáo y như vậy – qua máy gheđặt ở Toà Đại sứ VNCH tại Washington,D.C.

Ngày 29 tháng 10, Eugene Rostow (em của Walt Rostow),Thứ trưởng phụ trách Chính trị Vụ tạiBộ Ngoại giao Mỹ, cũng nghe tin Nixon muốnthọc gậy bánh xe hoà bình của Johnson trong cuộc traođổi trước bầu cử của giới tàichánh và ngân hàng thân cận với Nixon theo một nguồntin từ Alexander Sachs, một nhân vật trong hôiđồng quản trị của Lehman Brothers, từ NewYork. Trong bản ghi nhớ, Eugene Rostow viết,

“…Họ sẽ xúi Sài Gòn làm khó dễ, và HàNội phải đợi. Một phần chiếnlược của họ là người ta tin rằngmột cuộc tấn công sẽ xảy ra sớm, vàMỹ sẽ phải chi tiêu rất nhiều (và phảichịu thêm nhiều thương vong) thực tế đósẽ ảnh hưởng đến thị trườngchứng khoán và thị trường trái phiếu. Hànhđộng tấn công của Bắc Việt là mộtyếu tố nhất định trong suy nghĩ củahọ về tương lai.”

Nói cách khác, phe của Nixon trong giới tài chínhđánh cuộc là cố gắng hoà bình của Johnson sẽthất bại vì sự can thiệp của Nixon vớiVNCH.

Trong bản ghi nhớ thứ hai, 29/10/1968,Eugene Rostow viết “Nixon xúi Sài Gòn đưa thêm điềukiện và muốn Hà Nội đợi tới khi Nixonnhậm chức ‘ông ta sẽ chấp thuận tấtcả và đổ lỗi cho Johnson.’” Như vậy, theonguồn của Rostow cho hay, Nixon đang cố thuyếtphục cả Sài Gòn lẫn Hà Nội trì hoãn cốgắng hoà đàm của Johnson để có lợi vềsau.

Những tài liệu do Egene Rostow viếtcuối tháng 10, 1968

17 đến 29 tháng 10, tin từ phía Ngoạigiao Mỹ cho biết Sài Gòn có vẻ khó chịu với thayđổi của Hà Nội về việc ngưng oanhtạc miền Bắc và việc chính phủ Johnson cóthể sẽ ngưng chiến dịch Sấm Rền.Đến tuần lễ cuối tháng 10, Mỹ và HàNội mới đạt được thoả thuậnngưng oanh tạc. Cho đến 28 tháng 10, dù khó chịunhưng Tổng thống Thiệu đã nói với Đạisứ Ellsworth F. Bunker là ông vẫn đồng ý tiến hànhviệc ngưng bỏ bom Bắc Việt như đãđồng ý từ hai tuần trước.

Theo Ang Cheng Guan, Tổng thống Thiệuđã đồng ý tham gia hoà đàm từ nhiều thángtrước khi chấp nhận Bucharest – một địađiểm do Hà Nội đề nghị, nếu khôngđược những thành phố trung lập ở châuÁ, làm nơi hoà đàm từ giữa tháng 4, 1968.

Trong một bản ghi nhớ viết sau này(14/5/1974) Walt Rostow kể lại “sự không khoannhượng bất ngờ của Thiệu” – không tham giahoà đàm – qua thông tin từ Đại sứ Bunker tớiTổng thống Johnson trong phiên họp ngày 29 tháng 10, 1968.

Bản ghi nhớ của W. W. Rostow viếtngày 15 tháng 5, 1974.

Lại một Bà Rồng

Embed from GettyImages

Một nhân vật đã giữ vai trò rấtquan trong trong chuyến buôn lậu tháng 10, 1968 của Nixonvới chính phủ Việt Nam Cộng hoà là “Bà Rồng”(“Dragon Lady”), biệt danh Nixon gọi Anna Chennault; đây làmột cố vấn cao cấp trong Ban vận độngtranh cử Tổng thống của Nixon, dướiquyền trưởng ban vận động John N. Mitchell,sau này là Bộ trưởng Tư pháp của Nixon; AnnaChennault cũng là một đảng viên Cộng hoà có uy tínở vùng Á Châu, một nhân vật ủng hộ Trung hoaQuốc gia và triệt để chống cộng. Mộttay Chennault đã gây được 250.000 đô la cho quỹvận động tranh cử năm 1968 cho Nixon.

Anna Cheneaul là ai? Chennault tên khai sinh là 陳香梅 (Chen Xiangmei) hay Trần Hương Mai, sinhnăm 1925 tại Bắc Kinh. Tốt nghiệp đạihọc ban Trung Văn, ở đại học Lingnan (嶺南, Lĩnh Nam), Hong Kong năm 1944. Sau đó đi làm phóngviên chiến trường cho Trung ương Thông tấn xãtới năm 1948 đồng thời viết cho tờnhật báo Hsin Ming ở Thượng Hải tới năm1949. Năm 1947, Hương Mai lập gia đình vớiThiếu tướng Claire Lee Chennault (1893-1958), Chỉ huytrưởng Phi đoàn “Phi Hổ” của Mỹ trongĐệ nhị Thế chiến ở Trung Hoa. Tại HoaKỳ Anna Chennault trở thanh một người châu Á uytín trong đảng Cộng hoà, lãnh đạo Tậpthể đảng viên Cộng hoà người châu Á,Chủ tịch Uỷ ban Cứu trợ người Tịnạn Trung Hoa (1962-1970), giúp thành lập hộiNgười Mỹ gốc Hoa năm 1973, và khuyến khíchngười Hoa hội nhập vào chính trường tạiMỹ.

Vợ chống tướng Chennault là thành viêncủa khối Vận động cho Trung Hoa đã bôinhọ Tổng thống Harry Truman và Đảng Dân chủvì đã để Hoa Lục “rơi vào tay cộng sản”năm 1949. Khái niệm đảng Dân chủ nhunhược đối với cộng sản, đảngCộng hoà triệt để chống cộng có thểđã khai sinh từ chiến dịch tươngđối có hiệu quả này. Ngoài “mất nước”Anna Chennault và chồng cũng đã mất tiền vìkế hoạch điều hành hãng “Hàng không Vận tảiDân sự” sau đổi tên là “Hàng Không Hoa Kỳ” – liênhệ với CIA – dưới triều của TưởngGiới Thạch đổ bể khi hoạt độngcủa công ty này đã bị buộc phải dời sangĐài Loan.

Anna Chennault là người tổ chứccuộc họp tại nhà trọ của Nixon ở New Yorkvới Đại sứ VNCH Bùi Diễm vào tháng Bẩy,1968. Trong cuộc họp này Nixon nói với Bùi Diễm,Chennault là người “đại diện duy nhất”của ủy ban vận động tranh cử (củaNixon) đối với chính phủ ở Sài Gòn”. Cuộchọp ngày 12 tháng 7, 1968 có Nixon, Mitchell, Chennault và Bùi Diếmđều được xác nhận trong cuốn HồiKý của Chennault, The Education of Anna (1980) và cuốn InThe Jaws Of History (1987) Bùi Diễm viết với DavidChanoff.

Là người liên lạc của ban vậnđộng tranh cử của Nixon với VNCH, Anna Chennaultđã chuyển một loạt những tin nhắnđến Đại sứ Bùi Diếm, tới Tổngthống Thiệu cũng như những nhân vật quantrọng khác ở Sài Gòn hứa hẹn miền Nam sẽđược đối đãi tốt hơn khi Nixonthắng cử. Chennault nói với phía chính phủ VNCH, sángkiến hoà bình của Johnson chỉ là trò bịp đểHubert Humphey thắng cử và Humphrey lại là ngườichống Mỹ hoá chiến tranh nghĩa là Mỹ sẽ rútkhỏi Việt Nam nếu đảng Dân chủ thắngcử năm 1968. Chennault cũng nhấn mạnh là Nixonmuốn Mỹ can thiệp trực tiếp nhiều hơnở chiến trường. Đây là câu nói làm bùi taiTổng thống Thiệu, vì không có viện trợ vàủng hộ của Mỹ, miền Nam khó có thểđương đầu với quân đội cộngsản Bắc Việt và Việt Cộng ở miền Nam.

Tổng thống Thiệu bất hợp tác,Tổng thống Johnson phản công, Bà Rồng vẫntiếp tục lung lạc

Biết kế hoạch phá hoà đàm củaphe Nixon qua tin từ Eugene Rostow và một nguồn khác cùng lúcbiết tin Tổng thống Thiệu từ chối gởiphái đoàn VNCH sang Paris tham gia hoà đàm, Tổng thốngJohnson ra lệnh cho nhân viên Cơ quan An ninh Quốc giađặt máy nghe ở toà Đại sứ VNCH tạiWashington và tình báo CIA đặt máy nghe ở văn phòngcủa Tổng thống Thiệu ở Sài Gòn.

Ngoài máy nghe của NSA ở Toà Đạisứ VNCH ở Hoa Thịnh Đốn, Johnson cũng ralệnh cho FBI theo dõi Anna Chennault và ghi nhận tất cảmọi người xuất nhập Toà Đại sứViệt Nam. Ngày 30 tháng 10, 1968 FBI báo cáo Bùi Diễm nói vớiAnna Chennault là “sắp có chuyện” và yêu cầu Chennaultđến Toà Đại sứ. FBI cho biết Chennaultđã đi gặp Bùi Diễm; cuộc họp dài 30 phút.

Máy nghe của NSA cũng ghi lại cuộcđiện đàm của Đại sứ Bùi Diễmvới Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu nóirằng càng trì hoã hoà đàm thì càng có lợi cho đảngCộng hoà và Việt Nam Cộng hoà. Ông Đại sứcũng nói với Tổng thống Thiệu là ông có liênlạc trực tiếp với người củađảng Cộng hoà. Dĩ nhiên người đó không aikhác hơn là Anna Chennault.

Áp lực để Nixon ngưng chuyện pháđám, 4g 09 phút chiều ngày 31 tháng 10, 1968 Tổng thốngJohnson gọi cho TNS Everett Dirksen, nói ông đã biết âmmưu phá hoại của Nixon, và gián tiếp doạ sẽlật tẩy hành động mà Johnson gọi là “phảnquốc” của Nixon. Johnson còn cho là Nixon là phản bộivì ông đã cho Nixon biết tất cả chi tiết vềcuộc hoà đàm cũng như ứng cử viên Humpheyđược biết, không hơn, không kém.

Johnson nói với lãnh đạo khốiCộng hoà ở Thượng viện là ông thực sựnghĩ rằng đó là trò bẩn thỉu khi ngườicủa Richard Nixon lại đi nhắn tin xúi bẩy cảhai phía VNCH và cộng sản Bắc Việt tẩy chay hoàđàm, và ông không nghĩ rằng người dân Mỹsẽ chấp nhận hành động đó nếu họbiết được. Tổng thống Johnson cuối cùngđã nhắn với TNS Dirksen, “Ông ấy [Nixon] nên giữbà Chennault và cái đám đó ngồi yên vài ngày đi.”Tối đó Tổng thống Johnson tuyên bố ngưngChiến dịch Sấm Rền vào ngày hôm sau, 1/11/1968.Bắc Việt đồng ý hoà đàm.

Mật điện Walt Rostow gởiTổng thống Johnson 2/11/1968

Dù Johnson đã cảnh cáo Dirksen, Anna Chennaultvẫn không lui bước. Ngày 2 tháng 11, 1968 – Chỉ ba ngàytrước ngày bầu cử, Chennault nhắn tin cho BùiDiễm, “Trì hoãn đi, chúng tôi sẽ thắng. Trì hoãnđi ông ấy hiểu hết mọi chuyện. Ông ấynói làm ơn nói với sếp của ông (Tổng thốngThiệu] cứ trì hoãn [đến sau bầu cử].”Anna nói sếp của bà vừa gọi từ New Mexico. TheoWalt Rostow thì “sếp” đó có thể là ứng cử viên phóTổng thống Spiro Agnew đang vận động ởNM. Tối đó, Johnson lại điện thoại choDirksen, “Tôi biết Thiệu đã nói gì vơi họ [phecủa Nixon]. Tụi tôi biết tin từ hai phía. Tôi khôngmuốn đưa chuyện này vào cuộc vậnđộng tranh cử. Họ không thể làm nhưvậy. Đó là phản quốc.”

TNS Dirksen nói, “Tôi biết.”

TT Johnson, “Chúng ta đã có 24 giờtương đối hoà bình. Nếu Nixon kéo ngườimiền Nam Việt Nam đứng ngoài cuộc hoà đàm thìđó là trách nhiệm của ông ấy. Cho đến nay,đó là lý do tại sao họ không có mặt [ở Paris]. Tôiđã có sự đồng ý của họ [chính phủ VNCH]cho đến khi chuyện này xẩy ra.”

TNS Dirksen, “Tôi phải liên lạc với ôngấy thôi.”

TT Johnson, “Họ dám liên lạc vớimột thế lực nước ngoài [Bắc Việt] ngaytrong thời chiến. Đây là một cái lỗi tầyđình. Và tôi không muốn nói vậy. Ông phải nói vớihọ đừng có xía vào chuyện như vầy, vànếu họ không muống thấy nó lên báo trang nhất thìhọ phải ngưng ngay lập tức.”

2 tháng 11, 1968 Nixon đã gọi nói chuyệntrưc tiếp với Tổng thống Johnson vì sợ ôngsẽ đưa vấn đề ra công luận. Nixon nói, “Tôirất chắc về việc này. Theo chỗ tôi biết,những tin đồn rằng có ai đó đang pháhoại quan điểm của chính phủ Sài Gòn [về cuộchoà đàm] là chuyện tuyệt đối không đáng tinchút nào hết.”

Với báo cáo của FBI và của nhữngcơ quan tình báo khác trong tay, Tổng thống Johnson trảlời là ông rất mừng nghe Nixon cho biết nhưvậy. Nhân tiện ông muốn Nixon biết những gìđã xảy ra chung quanh sáng kiến hoà đàm. Bắtđầu từ lúc Việt Nam đã đồng ý đàmphán, rồi “có tin nhắn với Thiệu là với Nixonsẽ có lợi hơn. Tôi không nói là ông biết chuyệnnày. Tôi hy vọng nó như vậy.”

Sau đó Tổng thống Thiệu đã tuyênbố trước quốc hội VNCH là ông tẩy chayđàm phán; Cùng lúc, tại Mỹ Nixon tuyên bố là ông đãđược bảo đảm là cuộc hoà đàmsẽ bắt đầu. Hai công bố đó đẩyJohnson vào thế hoặc giống như như mộtkẻ lừa đảo hay là người đã hoàn toànmất kiểm soát trong cuộc hoà đàm.

Nixon, “Hả, không. Chúa ơi, tôi không baogiờ lại đi xúi Sài Gòn đừng ngồi vào bànđàm phán. Lạy Chúa chúng ta muốn họ qua Paris, chúng taphải đưa họ sang Paris, nếu không sẽ không cóhoà bình.”

Nixon còn nhấn mạnh là ông sẽ làm tấtcả những gì Tổng thống Johnson và Ngoạitrưởng Dean Rusk muốn, kể cả việc chính ôngsẽ đi Paris để giúp cuộc hoà đàm, Nixon nói, “Mìnhphải dẹp cuộc chiến tranh chết tiệt này.Đây là lúc chấm dứt cuộc chiến. Càng sớmcàng tốt. Dẹp đi hết chuyện công của ai. Tintôi đi.”

Được biết sau cuộc traođổi Nixon rất vui sướng, tin rằng ông đãlàm Johnson hết ngờ vực. Tuy vây, một Johnson khôn khéođã không tin sự kêu oan của Nixon.

Nixon nói láo không nháy mắt và phủ nhậncho đến chết tất cả mọi vai trò củaông trong cuộc phá hoại hoà đàm.

4 tháng 11, 1968 – Một ngày trước bầucử, Johnson nhận được báo cáo của FBI là AnnaChennault đã đến gặp Đại sứ VNCH.

Đặc sứ Mỹ William Averell Harriman và Đs VNCHtại Mỹ gặp nhau ở Toà Đại sứ Mỹở Paris (10/5/1968). Nguồn: UPI

Cùng ngày, Saville Davis của CSM hỏiĐại sứ Bùi Diễm về nguồn tin củaBeverly Deepe về trò bẩn của đảng Cộng Hoàảnh hưởng chính phủ ở Saigon, Bùi Diễmphủ nhận tin đó. Saville Davis liên lạc với ToàBạch Ốc.

Tổng thống Johnson có ý định xácnhận nguồn tin của CSM nhưng các cố vấncủa ông như Walt Rostow, Ngoại trưởng Dean Rusk vàBộ trưởng Quốc phòng Clark Clifford đềuđề nghị giữ im lặng. Clifford còn khuyến cáonếu xác nhận hành động phá hoại củađảng Cộng hoà mà Nixon vẫn đắc cử thìNixon sẽ khó mà lãnh đạo quốc gia. Không nhậnđược ý kiến của Toà Bạch Ốc, CSMquyết định không đăng đoạn tin cóthể gây sốc mà chỉ đăng tin Tổng thốngThiệu đơn phương quyết địnhtẩy chay hoà đàm do Beverly Deepe biên soạn, vớinguồn từ phía Việt Nam chứ không phải từngười Mỹ ở Sài Gòn.

Toà Bạch Ốc im lặng, CSM khôngđăng tin tròn vẹn vì không có bằng chứng chắcchắn Nixon là kẻ chủ mưu phá hoại.

Trong cuộc phỏng vấn với David Frostnăm 1997, Nixon nói ông không làm điều gì để pháhoại cuộc hoà đàm của Tổng thống Johnson.Còn vụ Chennault can thiệp với VNCH? Nixon nói ông khônghề cho phép thuộc cấp làm những việc đó.

“Về bà Chennault hoặc bất kỳngười nào khác, tôi không cho phép và tôi không biết gìvề bất kỳ liên hệ nào với chính phủViệt Nam vào thời điểm đó, hay xúi giụchọ không tham gia.” Ngay cả sau khi vụ Watergate, Nixonvẫn nói, “Lương tâm tôi không cho phép làm điềuđó.”

5 tháng 11, 1968 – Nixon thắng Humphrey khoảng ½triệu phiếu, đắc cử Tổng thốngnhưng ông, và thuộc hạ ở Sài Gòn vẫn tiếptục ngăn chận cố gắng tìm đến hoà bìnhtrước khi Johnson hết nhiệm kỳ. Dù thấtvọng chua cay Johnson đã giữ bí mật sự pháhoại hoà đàm của Nixon. Năm 1969, trước khirời Toà Bạch Ốc, Johnson đã gởi tất cảhồ sơ, tài liệu về thư viện Tổngthống LBJ ở Austin, Texas, trừ một tập tàiliệu. Tổng thống Johnson đã giao hồ sơChennault lại cho Walt Rostow, cựu Cố vấn An ninhQuốc gia của mình, cất giữ.

(Xem Ken Hughes, Chasing Shadows: The Nixon Tapes, theChennault Affair and the Origins of Watergate , The University of VirginiaPress (2014).)


Tổng thống Richard Nixontại cuộc họp báo ngày 1 tháng 11, 1973 tại Orlando,Florida.

Khi là Tổng thống, Nixon đã leo thangchiến tranh, đưa chiến trường sang Cambodia vàLaos khiến 22,000 lính Mỹ tử trận chưa kểđến số thương vong của thường dânở ba nước Lào, Cam Bốt và Việt Namtrước khi ký kết Hiệp định Paris vào năm1973.

30 tháng 4, 2008 – Trong cuộc phỏng vấnlịch sử truyền khấu giữa sử gia TimothyNaftali của Thư khố Quốc gia và Tom Charles Huston,phụ tá cố vấn và nhân viên phụ tá của Tổngthống Nixon (1969-1971) Huston cho biết

– Trưởng ban vận động tranhcử của Nixon, John N. Mitchell, trực tiếp can dựvào vụ phá hoại hoà đàm của Tổng thốngJohnson.

– Dù không có bằng chứng Nixon trựctiếp chỉ đạo nhưng không thể nào Mitchell haybất cứ ai dám tự ý hành động, Nixon phải cóliên hệ trực tiếp.

– Huston không bao giờ được Haldemannói chuyện về hồ sơ Chennault

2016 – Bằng chứng Nixon phản bạn,phản bội và “phản quốc”?

Cho đến cuối năm 2016 dù báo chí vànhiều tác giả nghiên cứu lịch sử thờiTổng thống Johnson và Nixon đã tốn biết baogiấy mực, chưa một ai trưng dẫnđược bằng chứng là Nixon đã trựctiếp chỉ huy cuộc phá hoại hoà đàm 1968 củaTổng thống Johnson.

Ngày 31 tháng 12, 2016, trên The New York Times, tácgiả John A. Farrell, viết bài “Sự Phản bộiViệt Nam của Nixon”, và công bố bằng chứng Nixonđã phá hoại cuộc hoà đàm 1968 của Johnson.

Bằng chứng đó là tập ghi chú củaH. R. Haldeman, đã thầm lặng xuất hiện từ2007. Haldeman là phụ tá thân tín của Nixon trong cuộcvận động tranh cử và sau là Tham mưutrưởng Toà Bạch Ốc của Tổng thống.

Ngày 22 tháng 10, 1968 Nixon ra lệnh cho Haldeman pháhoại sáng kiến hoà bình của Johnson.

Note của Haldeman

Haldeman ghi, “! Keep Anna Chennault working on SVN.”Nói Anna Chennault làm việc với chính phủ NamViệt Nam.

Nixon còn nói Haldeman cho Rose Mary Wood (thư ký riêngcủa Nixon) liên lạc với một nhân vật Trung Hoaquốc gia khác, thương gia Louis Kung và nhắn Kung “nóivới ông ấy [Tổng thống Thiệu] trì hoãn”.

Ngoài ra Nixon cũng vận động vớicả Tưởng Giới Thạch cũng như choứng cử viên phó Tổng thống Agnew hù doạ Giámđốc CIA Richard Helms phải tiết lộ thông tinnếu muốn giữ ghế với chính phủ mới.

Trong Hồi Ký, Nixon cho rằng ông đâucần phải xúi dục, Tổng thống Thiệu cũngcó đủ lý lẽ riêng để tẩy chay cuộc hoàđàm năm 1968.

Mặt khác, cũng có người cho rằngkhông thể có hoà bình ở Việt Nam năm 1968 thì khôngthể đổ lỗi cho Nixon đã phá hoại cuộchoà đàm của Johnson. Jack Tory của RealClear Politics tríchdẫn nhận xét của Nguyen Thi Lien-Hang, tác giảcuốn “Hanoi’s War” (2012) là Lê Duẩn “không muốn đàmphán cho đến mùa hè 1972” sau khi Mỹ và quânđội VNCH đập tan cuộc chiến dich Xuân Hè 1972của Hà Nội. Trái lại, Ang Cheng Guan, trong “The 1968 ParisPeace Negotiations and the Vietnam War”, trích Hoàng Văn Hoan chobiết Hà Nội quyết định đàm phán vớiMỹ sau khi Johnson công bố không ra tranh cử lầnthứ 2, và giới hạn bỏ bom ở Bắc Việt.Đây là một quyết định của Lê Duẩn,không có đồng thuận, và không lấy ý kiến củaHồ Chí Minh khi ấy đang dưỡng bệnh ởBắc Kinh chỉ và biết tin vào ngày 3 tháng 4, 1968. Ngày 28tháng 4, Bắc Kinh, chứ không phải Hà Nội, đưatin về bài phát biểu của Trường Chinh khôngnhững không nói đến cuộc hoà đàm mà còn nhấnmạnh phải tiếp tục chiến tranh giải phóng.

Hơn nữa, dù Nixon đã hay không xúi dụctẩy chay hoà đàm, trên thực tế Tổng thốngThiệu không muốn tham gia đàm phán 4 bên (Mỹ, VNCH,MTDTGPMN, Bắc Việt) vì chấp nhận đàm phán nhưthế nghĩa là công nhận MTDTGPMN là một thựcthể chính trị chính đáng và có thể là mộtđối tác liên hiệp. Đây là điểm chính phủVNCH kiên định khước từ trong suốt cuộcchiến với Lập trường bốn không: khôngchấp nhận, không thương lượng, không liênhiệp và không nhượng đất cho Cộng sản.

Nhận xét của giới nghiên cứu về“tài liệu Haldeman”

– Robert Dallek, một tác giả nhiềucuốn sách về Nixon, cho rằng tập ghi chú củaHaldeman “xác định những nghi ngờ” là Nixon đã âmmưu phá hoại và phạm luật liên bang.

– Evan Thomas, tác giả cuốn “Being Nixon” nói,ông Farrell đã khám phá ra sự thật của câu chuyệnđược bàn tán từ nhiều năm qua.

– Ken Hughes, tác giả cuốn “Chasing Shadows”(2014) nói về câu chuyện phá hoại hoà đàm cho rằngnhà báo Farrell đã tìm thấy “khẩu súng còn bốc khói”,mấu chốt của Vụ Chennault, “Nixon đã phamtội để giành bằng được ghếTổng thống.”

– Luke A. Nichter, một học giả ởĐại học Texas A&M, một người nghiêncứu rất kỹ những cuộn băng ghi âm củaNixon ở Toà Bạch Ốc nói ông thích cuốn “Richard Nixon:The Life” (28 March 2017) của Farrell nhưng không đồng ývới kết luận của tác giả về tập ghichú của Haldeman. Nitcher cho rằng tài liệu Haldeman qúamỏng, không chứng minh thêm điều gì mớiđể có một kết luận lớn hơn.

– Tom Charles Huston, người phụ tá củaNixon đã điều tra về vụ Chennault nhiềunăm trước viết trên “The Haldeman Notes” trênFacebook là khám phá của Farrell không hoàn toàn trả lời chocâu hỏi lịch sử. Nó, tài liệu Haldeman, củngcố suy luận nhưng không đưa đượcchúng ta đến một phán quyết cần thiết.”

– Tom Johnson, người ghi chép biên bảnnhững phiên họp ở Tòa Bạch Ốc thời Johnsonnghĩ rằng nếu Tổng thống tiết lộmẩu tin gây sốc [Chennault hành động theo lệnhNixon] lúc đó nó “sẽ gây thiệt hại lớn chocuộc vận động của Nixon, và Humphrey sẽtrở thành Tổng thống”. Tom Johnson sau này là nhà phát hànhtờ Los Angeles Times, rồi Giám đốc CNN.

– Sử gia Timothy Naftali, cựu giám đốcthư viện Nixon nói, tài liệu Haldeman đã “gỡđi cái lá che đậy sự phủ nhận có vẻkhả tín”.

Tổng thống Nixon và Việt Nam

Tổng thống Richard M. Nixon. Nguồn” Pollitico

Chuyện Nixon có phản bội Johnson và“phản quốc” như Johnson nghĩ hay không thuộcquyền phát xét của người Mỹ và lịch sửHoa Kỳ. Đối với người dân miền NamViệt Nam, Nixon có phản bạn hay không? Nhìn lạinhững gì Nixon đã làm trong gần hai nhiệm kỳTổng thống khi chiến tranh đang xảy ra và chínhsách bốn không của đồng minh Việt Nam,người đọc có thể thấy câu trảlời.

Cùng lúc Chennault hứa hẹn bí mật vớiĐại sứ Bùi Diễm, trong cuộc vận dộngtranh cử Nixon đã tuyên bố “Việt Nam hoá chiếntranh” tiến đến “Hoà bình trong Danh dự”,

“The nation’s objective should be to help the SouthVietnamese fight the war and not fight it for them. If they do not assume themajority of the burden in their own defense, they cannot be saved.”

“Mục đích của Mỹ là giúp ViệtNam chiến đấu chứ không phải đánh chohọ. Nếu họ không nhận phần lớn tráchnhiệm tự vệ, không ai có thể cứu Việt Nam.”

Là một chính khách chống cộng triệtđể của Mỹ trong thời Chiến tranh lạnh,Nixon là Tổng thống Mỹ đầu tiên gọi TrungCộng là nước Cộng hoà Nhân dân Trung Hoa và đãhọp thượng đỉnh với Mao Trạch Đôngvà Chu Ân Lai năm 1972 tại Bejing. Sau đó, Nixon giảmcăng thẳng với Liên Xô, tạo thế chân vạcvới hai nước lớn nhất trong khối cộngsản và là Tổng thống Mỹ đầu tiên viếngthăm Moskva. Tất cả những chính sách ngoại giaocủa Nixon, nhiều phần hơn ít, đều dokiến trúc sư “phù thuỷ” Kissinger vẽ kiểu.

Ở Việt Nam, Nixon dùng ảnh hưởngmới có với hai nước cộng sản đàn anhhầu áp lực Bắc Việt hoà đàm chấm dứtchiến tranh để lính Mỹ về nước.

Năm đầu tiên sau khi nhậm chức,Nixon đã cử Kissinger bí mật đi Paris gặp XuânThuỷ (4 tháng 8, 1969) bắt đầu loạt đàm phándai dẳng suốt 27 tháng, phần lớn, 174 lần, lànhững cuộc họp không kết quả, nhưng đãkết thúc với Hiệp đinh Paris ký ngày 27 tháng 1, 1973.

Trưởng phái đoàn Mỹ, VNCH, MTDTGPMN vàVNDCCH (1968 đến tháng 1, 1973)

Đàm phán bí mật: Henry Kissinger và LêĐức Thọ (1970 đến tháng1, 1973)

Embed from Getty Images

Đòi hỏi đầu tiên của BắcViệt khi Nixon bắt đầu muốn đàm phán(20/12/1968) là Mỹ phải lật đổ chính phủVNCH trước khi rút quân ra khỏi Việt Nam. Dĩ nhiênNixon và Kissinger không thể nào chấp nhận đòi hỏiđiên cuồng này của cộng sản Bắc Việt.

Song song Nixon cho lệnh mở Chiếndịch Thực đơn (Operation Menu), bí mật bỏ bomcăn cứ và đường tiếp vận hậucần của cộng sản Bắc Việt ở Cambodia(1969-1970) và ở Lào (1971).

Nixon bị áp lực lớn của khốiphản chiến, và quốc hội đã đưa 72 và 35nghị quyết đòi trong những năm 1971, 1972 đòichính phủ phải rút quân khỏi Việt Nam đểđổi lấy tù binh. Tới 29 tháng 8, 1972, Mỹ còn27,000 quân nhân ở Việt Nam

Cả hai phía đều “vừa đánhvừa đàm”. Kissinger và Lê Đức Thọ vẫnđàm phán trong bí mật.

Đầu tháng 4, 1970 Kissinger đềnghị cả Mỹ và Bắc Việt cùng rút quân khỏiViệt Nam trong vòng 16 tháng. Dần lùi bước,đến 31 tháng 5, 1971, Kissinger nói với Lê ĐứcThọ là Mỹ sẵn sàng đơn phương rút quânnếu Bắc Việt ngưng đưa quân xâm nhậpmiền Nam qua ngả Lào Và Cam Bốt, nghĩa là quân BắcViệt, và quân Việt Cộng vẫn ở nguyên vị trícũ ở miền Nam. Lùi thêm một lần nữa, ngày 16tháng 8, 1971, Kissinger hứa Mỹ sẽ rút quân, nhưng khônglật đổ chính phủ VNCH, nếu Bắc Việtthả tù binh. Hà Nội một lần nữa không chấpnhận đề nghị của Mỹ. 25 tháng 1, 1972,lần đầu tiên Nixon công bố về nhữngcuộc họp bí mât giữa Kissinger và Lê Đức Thọtrong một bài phát biểu trên toàn quốc.

Kissinger cho Mạc Tư Khoa và Bắc Kinh xembài phát biểu của Nixon và cho họ biết Mỹ đãhết kiên nhẫn. Một điểm cần nhắclại là khi đó Liên Xô ủng hộ một cuộcđình chiến ở Việt Nam trong khi Trung Cộng luônthúc giục cộng sản Việt Nam tiếp tụcchiến tranh. Vận động mặt ngoại giaovới Liên Xô và Trung Cộng xem ra không đạtđược nhiều kết quả như Mỹchờ đợi. Tuy nhiên, Liên Xô vì ảnh hưởng tìnhhình chính trị ở [Đông] Đức, với kháiniệm “Ostkpolitik” do Willy Brandt đề xướng và Hoàước Miền Đông sau đó, đã khiến Liên Xô cóvẻ hợp tác với Mỹ hơn Trung Cộng trongviệc áp lực Bắc Việt ngồi vào bàn hội nghi.

Chiến dịch Lam Sơn 719 (8 tháng 2đến 25 tháng 3 1971) được xem là kỳ thửthách khả năng chiến đấu độc lậpcủa quân đội VNCH – với sự yểm trợcủa Mỹ về hậu cần, pháo binh và không quân –cũng như để đánh giá hiệu quả củachính sách “Việt Nam hoá chiến tranh” của Nixon.

Bốn ký giả ảnh chiến trường: LarryBurrows, Henri Huet, Kent Potter, và Keisaburo Shimamoto bị bắnrơi theo trực thăng trên đường mòn Hppf ChíMinh ngày February 10, 1971. Nguồn: OntheNet

Cuối tháng 3, cộng sản Bắc Việttuyên bố toàn thắng trong Chiến dịch phản côngở Đường 9 Nam Lào, hạ sát 20.000 binh sĩ VNCH,bắt 1000 người khác làm tù binh, loại 3 trung đoànvà lữ đoàn cùng 13 tiểu đoàn bộ binh và pháo binh,4 thiết đoàn xe bọc sắt, phá huỷ hơn 1.100chiến xa, hơn 100 đại bác, và bán rơi hơn 500máy bay trực thăng. Đây là một thành tích phóngđại quá đáng.

Đại tá Nguyễn Hữu An, tưlệnh sư đoàn 308 sau này viêt trong hồi ký làTướng Giáp đã khoe với Cộ Chính trịđảng CSVN là “Quân đội NDVN đã chiếnthắng vĩ đại trong một cuộc đọsức dữ dội với tinh binh của nguỵ quânđược Mỹ yểm trợ”. Ông An kếtluận đây là một chiến thắng vô song đánhdấu sự phát triển độc lập và sáng tạocủa quân đội Bắc Việt.

Phía VNCH và Mỹ cũng công bố chiếnthắng ở Lào. Ngày quân lực VNCH đến Tchepone,Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu tuyên bốChiến dịch Lam Sơn 719 là “Chiến thắnglớn nhất từ trước tới nay… là mộtĐiện Biên phủ về mặt tinh thần, chínhtrị và tâm lý”, tiêu diệt hơn 13.000 binh sĩcộng sản Bắc Việt. Tổng thống Nixon chorằng “Chiến dịch Lam Sơn 719 xẩy ra như đãđịnh”, “quân đội VNCH chiến đấumột cách xuất sắc”. Tướng Abrams, trongmột váo cáo, viết quân đội VNCH “đã thựchiện một cuộc hành quân khá là ‘quỷ tha ma bắt’trong một môi trường phức tạp vì thờitiết xấu, địa hình xấu, và tất nhiên là quânsố của địch, và đã hoàn thành tốtđẹp công tác của những người chiếnsĩ.” Đánh giá Chiến dịc Lam Sơn 719 mộtcách tích cực, Tướng Abrams nói,

“Lam Sơn 719 là một mốc quan trọngtrong sự phát triển của Quân lực Việt NamCộng Hòa. Lần đầu tiên quân đội miềnNam đã có cuộc hành quân bằng nhiều sư đoànchống lại đối phương hùng mạnh vàquyết tâm. Quân lực VNCH hành quân không có cố vấnMỹ, xâm nhập vào một khu vực đã bịđịch kiểm soát từ nhiều năm, đãphải đối đầu với những thử tháchgay go nhất từ trước đến nay và làm trònnhiệm vụ chống lại kẻ thù xâm lược.”

Trả lời Howard K. Smith của đài ABChôm 22 tháng 3, 1971, Nixon nói Lam Sơn 719 là “một thành côngtrọn vẹn… đã cắt 75% khối hậu cầnđi qua đường mòn Hồ Chí Minh… là mộtchiến dịch đáng giá”. Sau chiến tranh Nixon vẫncho là Chiến dịch Lam Sơn 719 đã đạtđược mục tiêu. Trong Hồi ký, Nixon viết,“Kết quả sau cùng [Lam Sơn 719] là một thành công quânsự nhưng một thất bại tâm lý”,[tương tự như kết quả cuộc tổngcông kích Tết Mậu Thân 1968] vì cách đưa tin tiêucực của giới truyền thông về cuộc rút luicủa một số đơn vị quân đội VNCH.Ký giả Joe Galloway của UPI cho biết nhóm giánđiệp cộng sản trong thượng tầngchỉ huy ở Sài Gòn đã cho Hà Nội biết cảtháng trước khi Lam Sơn 719 bắt đầu, nói

“Chiến dịch 719 là hành động điênkhùng mà chúng ta [người Mỹ] đã làm, thuyếtphục quân đội miền Nam đưa 40.000 binh sĩvượt biên giới Lao tiến về Tchepone trong khi quânBắc Việt đã biết trước họ sẽtới.”

Một năm sau Lam Sơn 719, cộng sảnBắc Việt tiếp tục đánh lớn, mởChiến dịch Xuân hè (Mùa hè đỏ lửa) 1972, bắtđầu ở mặt trận Trị Thiên vào cuốitháng 3, 1972 với 40.000 quân chính quy. Khi Cộng sảnBắc Việt tiếp tục tấn công ở mặttrận Bắc Tây Nguyên – Dakto, Tân Cảnh Kontum – với20.000 quân, ngày 9 tháng 5, 1972, Nixon ra lệnh đặt mìn phongtoả cảng Hải Phòng và oanh tạc đườngtiếp vận từ Trung Cộng xuống phía Nam. Cùng lúcNixon hứa rút quân trong vòng 4 tháng và không đòi BắcViệt lui quân.

Chính sách ở mặt nối cũng nhưchìm của Nixon đều khó thuyêt phục đượcTổng thống Thiệu chấp thuận tham dự hoàđàm. Kissinger dù vẫn liên lạc với Sài Gòn nhưngkhông tiết lộ hết những nhượng bộcủa Mỹ với cộng sản. Ngày 17 tháng 8, 1972,Alexander Haig, phụ tá quân sự của Kissinger báo cáovới Tổng thống Thiệu về nội dung thoảước sắp thành hình và trao thơ của Nixon hứasẽ tiếp tục ủng hộ Việt Nam sau chiếntranh. Nixon vừa thuyết phục vừa đe doạcắt đứt viện trợ cho miền Nam nếuchính phủ VNCH không thuận với những điểmKissinger và Lê Đức Thọ đã đồng ý.

Anna Chennault với TT Nixon và Henry Kissinger, 1972. Nguồn:www.radcliffe.harvard.edu

Ngày 7 tháng 11, 1972, Nixon tái đắc cửvới hơn 60% số phiếu phổ thông. Từđầu tháng 10 tới giữa tháng 11, 1972, Tổngthống Thiệu vẫn khéo léo trì hoãn chấp nhậnthoả thuận của Kissger-Lê Đức Thọ,đồi hỏi phải có một số thay đổi.Người Mỹ đã thấy rõ Tổng tốngThiệu không muốn thoả hiệp và chỉ muốnthấy một cuộc toàn thắng. Kissinger tiếptục mật đàm với Lê Đức Thọđể thoả mãn yêu cầu của Tổng thốngThiệu đồng thời lại phong toả HảiPhong, 17 tháng 12, và oanh tạc miền Bắc từ 18đến 29 tháng 12 để buộc Hà Nội rởlại bàn hội nghị. Ngày 9 tháng 1, 1972 Thọ và Kissingerký lại bản thoả thuận – không khác gì bản đãcó trước cuộc oanh tạc Giáng sinh. Tuần lễtừ 14 đến 21 Mỹ hết sức thuyếtphục để Tổng thống Thiệu đồng ý;cuối cùng bốn bên đã ký kết Hiệp địnhBa Lê ngày 27 tháng 1, 1973. Cuối tháng 3, 1973 quân đội HoaKỳ đã hoàn toàn rút ra khỏi Việt Nam. Trong thưđề ngày 14 tháng 11, 1972, gới Tổng thốngThiệu, Nixon viết,

“But far more important than what we say in the agreement onthis issue is what we do in the event the enemy renews its aggression. You havemy absolute assurance that if Hanoi fails to abide by the terms of thisagreement it is my intention to take swift and severe retaliatory action.”

“Nhưng quan trọng hơn nhiều sovới những gì chúng ta nói trong hiệp định vềvấn đề này là những gì chúng tôi sẽ làm trongtrường hợp kẻ thù lai xâm lăng. Tôi xin bảođảm tuyệt đối với ông rằng nếu HàNội không tuân theo các điều khoản của hiệpđịnh, dự định của tôi là sẽ có hànhđộng trả đũa nhanh chóng và khắt khe.”

Ngay sau ký kết, Hà Nội lập tức viphạm thô bạo Hiệp định Ba Lê, tiếp tụcđưa quân xâm nhập, tấn công miền Nam.

Tổng thống Nixon cũng khằngđịnh trong báo cáo “Chính sách Ngoại giao của HoaKỳ cho những năm 1970: Định hình mộtnền Hoà bình Lâu bền” trước Quốc hội, làông sẽ không khoan nhượng tất cả mọi viphạm hiệp định Ba Lê của cộng sảnViệt Nam. Một trong những hành động trảđũa Nixon dự tính là mở lại cuộc oanhtrải thảm ở miền Bắc khi cộng sảnBắc Việt tấn công. Nhưng dự định nàyđã bị quốc hội Mỹ vô hiệu hoá sau khibiểu quyết hồi tháng 6, 1973 không cho phép Mỹ canthiệp bằng quân sự ở Đông Dương sau ngày15 tháng 8. Ngay cả ở 6 tháng đầu năm 1973, cóthể dùng “cái gậy” oanh tạc để răn đeBắc Việt cũng bị Watergate che lấp, Mỹchỉ bỏ bom cộng sản hai lần vào 22-23 tháng 3 và16-17 tháng 4.

Tổng thống Thiệu nói về việc ông ký Hiệp định Ba Lê và tại sao ông từchức (California, 1990).

Khả năng Mỹ trở lại chiếntrường Việt Nam để răn đe cộngsản Bắc Việt hoàn toàn không còn nữa sau khilưỡng viện quốc hội Hoa Kỳ với 2/3số phiếu phủ quyết phủ quyết củaNixon để thông qua Đạo Luật Quyền lựcChiến tranh (War Power Act) giới hạn quyền hành phápcủa Tổng tư lệnh (Tổng thống) trong tìnhtrạng chiến tranh.

23 tháng 9, 1973, Kissinger trở thành Ngoạitrưởng Mỹ; ngày 16 tháng 10, 1973 Lê Đức Thọvà Henry Kissinger được giải Nobe Hoà bình vì đãđạt được thoả thuận ngưngchiến. Lần đầu tiên trong lịch sử giảiNobel Hoà bình, hai thành viên của Uỷ ban Nobel, phảnđối và từ chức. Lê Đức Thọ từchối nhận giải vì không hợp “những tình cảmtiểu tư sản” loại này và bên địch đã viphạm đình chiến. Kissinger, dù có nhiều do dự,đã nhận Nobel, lấy tiền thưởng cho quỹhọc bổng giúp con em tử sĩ hoặc chiến binhMỹ mất tích ở Việt Nam. Khi miền Nam rơi vàotay cộng sản Bắc Việt, Kissinger muốn trảlại giải Nobel Hoà bình 1973 nhưng không đượcUỷ ban Nobel chấp nhận.

Vì vụ Watergate, Nixon phải từ chứcvào tháng 8, 1974. Quốc hội Hoa Kỳ đã cắtgiảm viện trợ năm 1974, khi đó viện trợquân sự đã giảm gần một nửa. Những láthư cam kết của Tổng thống Nixon gởiTổng thống Thiệu không còn giá trị vì War Power Act1973 đã trói tay Tổng thống Gerald Ford dù ông có muốnthực hiện lời hứa của Nixon đi nữa.


Tổng thống Nguyễn Văn Thiệu từ chức, ngày 21 tháng 4, 1975.

Kết quả không tránh được, quâncộng sản Bắc Việt chiếm toàn miền NamViệt Nam ngày 30 tháng 4, 1975, chấm dứt nềnĐệ nhị Cộng hoà. Khi người Mỹ sau cùngở Toà Đại sứ Mỹ lên trực thăng bay rabiển, Kissnger thán, “chỉ còn lại một cảm giáctrống vắng”.

Và theo Alistair Horne, một trong nhiềungười viết tiểu sử của Kissinger thìthất bại của người Mỹ ở Việt Namlà “một thất vọng nổi cộm trong suốtcả đời của Kissinger – là nguồn ân hận vôtận. Nó đối với tôi là điểm u uấtnhất trong kinh nghiệm chính quyền.” Trong Dự ánphỏng vấn những Ngoại trưởng Hoa Kỳcủa đại học Havard (2014), Kisinger nói, “Nếu màNixon còn tại chức, chúng tôi chắc chắn đã oanhtạc đường tiếp vận hậu cầncủa cộng sản Bắc Việt ở Cam Bốt vàLào.”

Cái “Nếu mà” của ông Kissinger chỉ làmột trong một chuỗi dài những cái “nếu mà”của những người có trách nhiệm vớilịch sử – những người đi làm lịchsử. Và chính họ cũng không thể trả lời chohơn 100.000 gia đình chiến sĩ Việt Nam Cộnghoà đã tử thương ở những mặt trậnsau cùng bảo vệ miền Nam, hay những ngườibị xử tử ngay sau đó hoặc dã chết dầnmòn trong cái trại tù cộng sản sau 1975. Lịch sửkhông có chữ “nếu mà”.

Nửa triệu người miền Nam đãchết trong cuộc chạy trốn cộng sản sautháng 4, 1975 hẳn đã gây ra nhiều nỗi trốngvắng và u uất, thất vọng suốt đời,lớn gấp nhiều lần so với những cảmgiác của ông Kissinger.

30 tháng 4, 1975 đến Sài Gòn, Bùi Tín,Đại tá cộng sản Bắc Việt nói,

“The war has ended today, and all Vietnamese are victors.Only the American imperialists are the vanquished.” (PBS, “The End of the Tunnel(1973-1975)”)

“Hôm nay chiến tranh đã chấm dứt, vàtất cả dân Việt Nam là người chiếnthắng. Chỉ có đế quốc Mỹ là kẻbại trận.”

Tỷ André, một người miền Namkhuyết tật, mồ côi từ nhỏ nhận xét:

“It was a war in which there were no winners, onlyvictims.” (TyAndré, Allen McMahon, “On my Brother’s Shoulders”, Wakerfield Press,South Australia, 1997, trang 217

“Đó là một cuộc chiến không cóngười thắng cuộc, mà chỉ có nạn nhân.”

Hai miền, hai văn hoá!

Hơn bốn mươi năm sau ngàychiến thắng, cộng sản Việt Nam vẫn khôngthống nhất được lòng người.

Những ngày cuối năm Bính Thân (tháng 1,2017)

© DCVOnline

Nếu đăng lại, xin ghi nguồn vàđọc “Thể lệ trích đăng lại bài từ DCVOnline.net”


Nguồn:

– Vietnam: A Television History; Interview with W. Averell(William Averell) Harriman, 1979, Open Vault, WGBH, 1/29/1979.

– Amy Belasco, Lynn J. Cunningham, Hannah Fischer and LarryA. Niksch, “Congressional Restrictions on U.S. Military Operations in Vietnam,Cambodia, Laos, Somalia, and Kosovo: Funding and Non-Funding Approaches”,Cogressional Research Service, January 16, 2007.

– Ang Cheng Guan, “The 1968 Paris Peace Negotiations and theVietnam War”, Tamkang Journal of International Affairs (Tạp chí Nghiêncứu Quốc tế Đạm Giang), Vol.10, No.4, April 2007,trang 133-176.

LBJ’s ‘X’ File on Nixon’s ‘Treason’. Robert Parry,Consortiumnews.com, March 3, 2012.

The Almost Scoop on Nixon’s ‘Treason’. Robert Parry,Consortiumnews.com, June 7, 2012.

– Timothy Naftali, “Tom Charles Huston InterviewTranscription”, Thư viện và Viện bảo tàng Tổngthống Richard Nixon,https://www.nixonlibrary.gov/virtuallibrary/documents/histories/huston-2008-04-30.pdf,30 April 2008 (Giải mật 3/7/2014)

The LyndonJohnson tapes: Richard Nixon’s ‘treason’. By David Taylor, Politico.com,2014

Yes, Nixon Scuttled the Vietnam Peace Talks | It’s been rumored foryears. Now we have real proof. By John Aloysius Farrell, Poliyico Magazine,June 09, 2014

Fleshing Out Nixon’s Vietnam ‘Treason’. By James DiEugenio,ConsortiumNews.com, September 8, 2014

– James H. Willbanks, “A Raid Too Far”, Chapter 10: AssessingLam Son 719, Texas A&M University Press College Station Copyright © 2014.

– Kissinger, Henry A., “Interview with American Secretariesof State Project” (SOSP). Harvard University, 6 Nov 2014., p11

– Watergate reporter: Nixon is still tricky after all theseyears. By Carl Bernstein, The Washington Post, July 24, 2015.

Don’tBlame Nixon for Scuttled Peace Overture. Jack Torry, RealClear Politics,August 09, 2015.

Nixon’s Vietnam Treachery. John A. Farrell, The New York Tiimes,Sunday Review Dec. 31, 2016.

– James K. Sebenius, L. Alexander Green & Eugene B.Kogan, “Henry A. Kissinger as Negotiator: Background and Key Accomplishments”,Harvard Business School | Working Paper 15-040, November 24, 2014, v3.1 rev.December 12, 2016

– James K. Sebenius & Eugene B. Kogan, “Henry Kissinger’sNegotiation Campaign to End the Vietnam War”, Harvard Business School | WorkingPaper 17-053, December 12, 2016, v1.25

Nixon’s Vietnam Treachery. John A. Farrell. The New York Times,31/12/2016.

Nixon Tried to Spoil Johnson’s Vietnam Peace Talks in ’68, NotesShow. Peter Baker, The New York Times, 2 tháng 1, 2017.

– The Richard M. Nixon National Security Files, 1969-1974 |Kissinger’s Secret Vietnam Negotiations

– Miller Center of Public Affairs, University of Virginia.“Richard Nixon: Foreign Affairs.” Accessed January 7, 2017.http://millercenter.org­/president/biography/nixon-foreign-affairs.