Trần Nhật Vy
TTO - Từ cuối thế kỷ 19 có thể thấy Kiều của Nguyễn Duđã hoàn toàn “hòa nhập” với vùng đất phương Nam của Tổ quốc, làm nên những “KiềuSài Gòn” độc đáo.
Hình ảnh Kiều được vẽ giống phụ nữ Sài Gòn thập niên 1960 trong Kim, Vân, Kiều truyện - Ảnh: T.N.VY chụp lại.
Trong khi khán giả Sài Gòn đang ngóng xem nàng Kiều lần đầu lên sânkhấu ballet trong vở Ballet Kiều ra mắt ngày 20-6, ngoái nhìn lại từ cuối thếkỷ 19 có thể thấy Kiều của Nguyễn Du đã hoàn toàn “hòa nhập” với vùng đấtphương Nam của Tổ quốc, làm nên những “Kiều Sài Gòn” độc đáo.
Năm 1875, ông Trương Vĩnh Ký đã cho xuất bản Kim, Vân, Kiều truyện bằngchữ quốc ngữ, đặc biệt hình ảnh nàng Kiều trong tác phẩm này trong bản in lầnthứ 3 năm 1911 mang rặt phong cách của người Sài Gòn.
Những hình ảnh này do con rể ông Trương Vĩnh Ký là Nguyễn Hữu Nhiêu vẽ.Kiều không còn tha thướt trong những bộ quần áo lướt thướt rất... Tàu mà mặc áodài, tóc bới gọn sau ót như các phụ nữ Sài Gòn của thập niên 1960 trở về trước.
Kiều ca vọng cổ rất mùi
Hai mươi năm sau, năm 1896, ông Trương Minh Ký đã cho ra đời kịch bảnquốc ngữ Kim Vân Kiều hát bội. Rồi gần nửa thế kỷ sau nữa, năm 1922, ông TrươngQuang Tiền đã cho ra đời tuồng cải lương Kim Vân Kiều.
Không biết ở vùng đất của Nguyễn Du, xưa nay nàng Kiều có lên sàn diễnbao giờ chưa? Nhưng từ cuối thế kỷ 19 thì “Kiều Sài Gòn” đã ra trước ánh đènsân khấu nhiều lần. Đặc biệt là nàng ca vọng cổ cũng “mùi” hết biết.
Năm 1919 - 1920, Cao Văn Lầu sáng tác Dạ cổ hoài lang. Đây là một bàica độc đáo khi diễn tả đủ các hình thái tình cảm của con người: vui buồn, hờngiận, tức tối..., trong khi những bài cổ bản của âm nhạc tài tử phải dùng cácbài bản khác nhau để diễn tả các tình cảm ấy.
Chính vì vậy, Dạ cổ hoài lang ra đời đã góp phần đẩy mạnh sân khấu cảilương và sau này trở thành bài ca chánh của cải lương. Tới mức người ta phảithốt lên: phi vọng cổ bất thành cải lương!
Đặc biệt, tuồng cải lương Kim Vân Kiều chính là “tuồng cải lương đầutiên có ca vọng cổ” mà lịch sử cải lương đã ghi nhận. Có điều Kiều ra đời vàtrình làng người coi năm 1922 chớ không phải năm 1918, bởi năm 1918 chưa có bàiDạ cổ hoài lang.
Một trang kịch bản của tuồng cải lương Kim Vân Kiều.
Một trang kịch bản của vở cải lương về Kiều, lúc này Thúy Kiều được gọi là Túy Kiều - Ảnh: T.N.VY chụp lại.
Nàng Kiều nói giọng Sài Gòn
Vở hát bội Kiều và vở cải lương Kiều đều có đến ba tuồng khác nhau diễntrong ba đêm, để thể hiện hết nội dung truyện Kiều.
Trong Kim Vân Kiều hát bội, Trương Minh Ký chia thành Lãm Túy hiên đệnhứt, đệ nhị và đệ tam hồi. Còn trong tuồng cải lương Kim Vân Kiều, TrươngQuang Tiền lại đặt ba tên khác nhau cho ba tuồng: Kiều du thanh minh, Hoạn Thơtróc Kiều và Kiều ngộ Từ Hải.
Thú thiệt, kịch bản thì phải... coi người ta diễn mới thấy hết cái hay,cái thần của tích truyện, còn đọc thì... không đã! Nhưng không có gạo thì ănbắp, ăn bo bo đỡ chớ biết sao!
Ông Trương Vĩnh Ký ngay câu đầu của Kim, Vân, Kiều truyện đã viết: Trămnăm trong cõi người ta/ Chữ tài chữ mạng khéo là ghét nhau.
Hai ông Bùi Kỷ và Trần Trọng Kim thì ghi chữ “mệnh” thay vì “mạng”.
Ngay cái tên của nàng Kiều cũng là Túy Kiều, Túy Vân chớ hổng phải “Thúy”!
Hình ảnh Kiều được vẽ giống phụ nữ Sài Gòn thập niên 1960 trong Kim, Vân, Kiều truyện - Ảnh: T.N.VY chụp lại.
Còn trong tuồng cải lương, nàng Kiều nói hoàn toàn bằng giọng SàiGòn (tất nhiên). Thử đọc đoạn Kiều đi kiếm trâm gài tóc làm rớt và đã bị KimTrọng lượm mất: “Vườn hoa vừa dạo cảnh, chiếc xoa đã lìa mình.
Âu là ta theo đường cũ đi tìm, coi vật kia có rớt! Ủa lạ! Nhơn saokiếm khắp, cũng chẳng thấy chi, nếu có người lấy đặng của ni, ắt là thiếp xabay tiếng xấu, rồi đó”. Kim Trọng nói: “Hỡi ai mất của? Có kẻ được xoa, biếtđâu hiệp phố châu về, mà ước cây lành chim đỗ, đó nàng”.
Hoặc câu Kiều nhớ Kim Trọng: “Cha chả! Chẳng biết sau từ ngày tôi gátiếng cùng chàng Kim đến nay, xem ra tình càng thắm thía, dạ luống ngẩn ngơ.Hôm nay là ngày sanh nhựt của ngoại gia tôi, hai thân cùng với hai em tôi đã đivắng hết, tôi cũng tính nhơn lấy dịp lén qua đại nhà chàng.
Vàng thử đá muốn cho biết sức, nhưng mà lửa gần rơm ấy cũng ngại lòng.Ối! Mà nghĩ không lẽ, thôi, thà đánh liều nhắm mắt đưa chơn, chi mà cứ hổ màythẹn mặt”...
Còn nhiều, nhiều lắm những nét thú vị của “Kiều Sài Gòn”, nếu độc giảquan tâm có thể đọc trọn các kịch bản này trong một quyển sách sắp được ra mắt.Kiều Sài Gòn rất là Sài Gòn. Tiếc là chưa được lên sàn diễn để bà con mìnhthưởng lãm. Thôi thì đọc tạm vậy!
Trong 50 năm cải lương do tủ sách Nam Chi ở Sài Gòn in năm 1968, ở trang 176, ông Vương Hồng Sển ghi rõ: “Năm 1922 chính là năm điển hình, diễn tuồng Trang Tử thử vợ và tuồng Kim Vân Kiều mấy phen tại rạp Mỹ Tho rồi lên diễn tại rạp Chợ Lớn và rạp Modern Sài Gòn. Lúc này hát cải lương đã ra đời và hình thành thật sự”. Rạp Chợ Lớn nay là rạp Thủ Đô và rạp Modern Sài Gòn (đọc là mô đẹc) từng là rạp Lê Lợi trên đường Lê Thánh Tôn, sau chợ Bến Thành. |