Ảnh vũ sư Lưu Hồng và vợ, nghệ sĩ Mỹ Phương trên bìa tuần báo Thế Giới Nghệ Sĩ số 42 phát hành ngày 27 tháng 11 năm 2015.
Tháng 11 tuần này, sẽ tròn đúng ba năm giỗ của cố vũ sư Lưu Hồng, người thầy của bộ môn ca múa vũ nghệ thuật dân tộc Việt. Có lẽ, ông là một trong những nhân tài của nghệ thuật Việt Nam trong ngành múa. Không chỉ riêng ông, mà cả gia đình của ông cũng là những nghệ sĩ đa tài của bộ môn ca vũ này trong suốt hai thập niên dài tại miền nam Việt Nam. Ông ra đi, tuy đã ngừng sinh hoạt văn nghệ, nhưng vẫn để lại nhiều thương tiếc trong giới nghệ sĩ. Nghệ thuật Việt Nam cũng tiếc thương một người tài hoa. Vũ Sư Lưu Hồng đã là một người Thầy của nghệ thuật ca vũ, và học trò của ông đã có nhiều nghệ sĩ nổi danh sau này.
Những người trẻ hơn, khán giả của thế hệ sinh trưởng từ thập niên 90 về sau, ít biết hơn về cái tên Vũ Sư Lưu Hồng hay đoàn ca vũ nhạc của ông, nhưng những ai đã sống và lớn lên với Sài Gòn trước 1975 nói riêng, và tại miền nam nước Việt nói chung, thì Lưu Hồng là người đã tô thắm sắc nét đậm đà phong phú cho nghệ thuật ca vũ nhạc dân tộc Việt. Trong một cơ hội được tiếp xúc với phu nhân của ông, nghệ sĩ Mỹ Phương, chúng tôi có hân hạnh được biết thêm nhiều về hành trình một đời vì nghệ thuật của vũ sư Lưu Hồng, cũng như hạnh phúc đã có nhau một đời của ông bà.
Vũ Sư Lưu Hồng sinh trong giấy tờ là năm 1933 nhưng tuổi thật của Ông là Giáp Tuất. Ông bước vào nghệ thuật múa từ lúc còn rất nhỏ, rất trẻ. Ông và gia đình có một giòng máu nghệ thuật trong người, là những người có tên tuổi trong làng văn nghệ nước Việt. Những anh em của Vũ Sư Lưu Hồng, còn có ông anh ruột, nghệ sĩ Lưu Huỳnh, một tay trống nổi tiếng của các phòng trà ca nhạc Sài Gòn thời xa xưa đó (thân phụ ca sĩ Mỹ Lan), trong khi người em Lưu Bình là một tay trống của ban nhạc danh tiếng Shotguns. Hơn thế nữa, đoàn vũ của gia đình họ Lưu đã từng được vị hoàng đế cuối cùng của Việt Nam là Vua Bảo Đại triệu vào cung để trình diễn. Đoàn đã đi diễn khắp nước Việt Nam. Nhưng nói riêng về người vũ sư Lưu Hồng mà Sài Gòn đã một thời hào quang tên tuổi ông, và ngay cả quốc tế cũng đã biết đến ông rất nhiều với sự ngưỡng mộ. Lưu Hồng phải là một nhân tài của nghệ thuật Việt Nam. Giống như một nhạc sĩ để lại đời hàng trăm ca khúc bất hủ trong âm nhạc, còn Lưu Hồng để lại cho nghệ thuật dân tộc hàng trăm vũ khúc, vũ điệu với nhiều hình ảnh không gian và thời gian khác nhau. Ông là người có óc sáng tạo, biết tạo dựng sân khấu những hình ảnh mới lại, thích thú, lôi cuốn người xem. Những vũ khúc đi kèm với âm nhạc hay được dựng nên trong một kịch bản khéo léo. Thập niên 1950, mọi người thường biết đến nhiều tên đoàn vũ Lưu Hồng - Mỹ An, trong đó có nghệ sĩ tên tuổi thời đó là Bạch Yến. Thời này, âm nhạc Việt Nam còn nhiều sắc thái hình ảnh dân tộc cổ truyền. Vũ múa dân tộc đi đôi với ca nhạc được thịnh hành. Đoàn vũ Lưu Hồng - Mỹ An như tên một người nghệ sĩ siêu sao của thời buổi, đi đến đâu cũng thu hút khán giả và thành công nhiệt liệt.
Thời kỳ Việt Nam xảy ra những lần nội biến binh lửa, năm 1964, Lưu Hồng đã lập đoàn múa Moulin Rouge, tiền thân của đoàn Lưu Hồng ngày sau. Nhưng Lưu Hồng đã xây dựng sự nghiệp nghệ thuật của mình, khi ông tiếp tục có những sáng tạo mới trên sân khấu vào những năm thập niên 70. Hình ảnh của những vũ khúc sân khấu ca nhạc kịch thường được khách Sài Gòn thưởng lãm ở nhà hàng ca vũ nhạc Maxim, hay trên sân khấu truyền hình Việt Nam đài số 9 với chương trình của nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ. Những nét đặc sắc mà Lưu Hồng đạo diễn dàn dựng cho sân khấu, những sáng tạo vũ điệu màu sắc dân tộc đã là một phần chính cho sự thành công của các chương trình văn nghệ Hoàng Thi Thơ tại Maxim hay trên truyền hình hay cả những lần lưu diễn ở nước ngoài. Không có nhiều vũ sư nghệ thuật dân tộc để lại dấu ấn trong sinh hoạt của âm nhạc, nhưng Lưu Hồng là một tên tuổi mà nhiều nghệ sĩ đã phải đồng ý trân trọng ông như một ngôi sao trên sân khấu văn nghệ, thời kỳ huy hoàng nhất là những năm của thập niên 1960 đến 1975.
Gặp Gỡ Người Duyên Phận Trăm Năm
cuối năm đó cả 2 thành hôn vào ngày 17 tháng 11.
Năm 1959-1960, vũ sư Lưu Hồng gặp một cô gái học sinh rất đẹp, tên Phan Mỹ Phương. Cô thiếu nữ này, lúc đó chỉ mới 15-16 tuổi, đam mê ca hát nên đi tìm một cơ hội để bước lên sân khấu nghệ thuật. Mỹ Phương gặp gỡ nhạc sĩ Ngọc Sơn, một nhạc sĩ trẻ đã có tiếng lúc đó. Từ nhạc sĩ Ngọc Sơn, cô gái Mỹ Phương được giới thiệu đến đoàn vũ nghệ thuật Lưu Hồng - Mỹ An. Thật ra, ban đầu Mỹ Phương muốn bước vào nghệ thuật bằng tiếng hát. Cô đã từng được nhạc sĩ Trường Hải huấn luyện để hát. Nhưng duyên số nghệ thuật, đã khiến Mỹ Phương nổi danh trên sân khấu múa. Vũ sư Lưu Hồng và Mỹ Phương gặp nhau, nẩy nở tình cảm thương mến cho nhau. Mỹ Phương gia nhập vào đoàn, trở thành một bông hoa mới được nhiều chú ý bởi nhan sắc và tài năng của cô. Để có thể được tự do theo đoàn đi lưu diễn khắp các tỉnh, miền của đất nước, Mỹ Phương chấp nhận yêu cầu của gia đình là kết hôn với vũ sư Lưu Hồng. Nếu không, thì với tuổi con gái còn quá trẻ, cha mẹ cô không yên tâm cho phép con gái mình đi theo đoàn múa một mình như thế. Năm 1960 đó, chỉ sau thời gian rất ngắn gặp gỡ, Lưu Hồng và Mỹ Phương đã kết hôn với nhau một năm sau đó, ngày 17 tháng 11 năm 1961..
Hai người bắt đầu cho một giai đoạn mới của đoàn vũ. Sau khi nghệ sĩ Mỹ Dung và nghệ sĩ Bạch Yến rời khỏi đoàn, và nghệ sĩ Mỹ An đi lấy chồng, thì đoàn vũ mang tên hai vợ chồng Lưu Hồng - Mỹ Phương. Đôi vợ chồng uyên ương này đã sống với nhau rất hạnh phúc, bền vững suốt hơn 52 năm, kể cả những lần phải trải qua những cuộc bể dâu của đất nước. Họ có với nhau 2 người con, một trai một gái. Cô con gái lớn chính là ca sĩ Ý Nhi nổi tiếng trong thập niên 90 tại hải ngoại, từng là ngôi sao sáng trên sân khấu của các video ca nhạc của trung tâm Thúy Nga. Người con rể là ca sĩ Kenny Thái. Cả đôi vợ chồng nghệ sĩ trẻ này cũng theo gương hạnh phúc bền vững gắn bó của cha mẹ, luôn có hợp không lần tan. Trong một bài viết trước đây cũng trên trang báo này, người viết chúng tôi đã viết về cô ca sĩ Ý Nhi cũng như cuộc tình trăm năm cùng với ca sĩ Kenny Thái. Còn người con trai của Lưu Hồng - Mỹ Phương là Lưu Chí Minh.
Sự Thành Công Của Vũ Sư Lưu Hồng
Sánh đôi với nhau, Lưu Hồng và Mỹ Phương cùng đoàn vũ Lưu Hồng làm sáng tỏa vườn hoa nghệ thuật dân tộc với nhiều màn ca vũ hay vũ kịch rất xuất sắc, nổi tiếng. Mỹ Phương như một cô đào chính của đoàn, luôn nổi bật những lần trình diễn. Nhưng nhiều ngôi sao sáng, phải gọi là siêu sao của sân khấu kịch nghệ điện ảnh Việt Nam đã xuất thân từ đoàn vũ Lưu Hồng - Mỹ Phương, đã là học trò của vũ sư Lưu Hồng, trong đó có các tài tử Thẩm Thúy Hằng, Kim Cương. Nhiều màn vũ vẫn còn được lưu truyền cho đến ngày nay, khi nhiều hội đoàn trẻ hay các đoàn vũ ở hải ngoại đã vẫn dùng lại những điệu múa đó trong các chương trình sinh hoạt trong cộng đồng Việt hải ngoại. Một trong những kịch bản thành công có tiếng vang của Lưu Hồng chỉ đạo, là nhạc kịch "Tấm Cám" với nghệ sĩ Kim Cương, được trình diễn trong một đại nhạc hội của người nghệ sĩ này. Nghệ sĩ Kim Cương, Thẩm Thúy Hằng cũng nhiều lần tham gia các nhạc kịch tại Maxim. Khách văn nghệ Sài Gòn vẫn còn nhớ sân khấu Maxim với nhiều khuôn mặt nghệ sĩ nổi tiếng khác đã nhảy múa theo sự đạo diễn sân khấu của vũ sư Lưu Hồng, như Ngọc Phu, Tuyết Minh...
trong một màn vũ tại Club Moulin Rouge năm 1964
Nhận lời hợp tác chính thức với nhạc sĩ Hoàng Thi Thơ, người luôn đánh giá cao nghệ thuật múa vũ điệu dân tộc và tôn trọng tài năng của Lưu Hồng, gia đình Lưu Hồng - Mỹ Phương cùng các nghệ sĩ, học trò của ông sinh hoạt thường xuyên tại nhà hàng Maxim, một nơi chốn nổi tiếng quen thuộc cho dân Sài Gòn có tiền và người yêu văn nghệ. Sau này gọi là đoàn vũ Maxim. Nhà hàng Maxim này của thương gia Huỳnh Đạo Nghĩa, người được biết là chủ nhân của công ty kem đánh răng Hynos Sài Gòn nổi tiếng ngày xưa. Thời đầu thập niên 70, có nhiều trường phái về múa vũ. Nổi tiếng tại Sài Gòn có các trường dạy của vũ sư Ánh Tuyết (thân mẫu của ca sĩ Nguyễn Hưng ngày nay), hay vũ sư Nguyễn Thống, hay sư Thanh Xuân.. mỗi vũ sư như một trường phái riêng, nét hay riêng, thể điệu riêng, sắc thái riêng. Nhưng với vũ sư Lưu Hồng là vũ dân tộc trong những kịch bản của ca nhạc thời trang. Nổi tiếng như là một dấu ấn của tên tuổi Lưu Hồng, đoàn nghệ thuật của ông còn được biết với cái tên Vũ Bộ Lưu Bình Hồng. Đoàn vũ Maxim có 12 nữ vũ công chính, tất cả đều đẹp và múa tuyệt vời. Họ đã được mời lên đài truyền hình góp mặt thường xuyên các chương trình ca nhạc Hoàng Thi Thơ, đi lưu diễn khắp các tỉnh thành nhất là đi trình diễn cho các tiền đồng mặt trận cho lính, khi thời đó chiến tranh đang rực đỏ lửa đạn nơi nơi. Đoàn vũ Maxim có một lần gây xôn xao tin tức trên báo chí và giới văn nghệ với cái chết của một nữ vũ công có tiếng là cô Kim Lệ Thi (em gái của nghệ sĩ Kim Xuân). Sau cái chết bất ngờ của Kim Lệ Thi, đoàn vũ chỉ còn 11 người, vẫn tiếp tục sinh hoạt. Nhưng nhiều biến cố xảy ra trong đoàn hay lúc trên sân khấu hay khi ở hậu trường, khiến mọi người trong đoàn nghĩ rằng hồn ma của cô đào này về phá. Mọi người phải lập bàn thờ, vía tránh những tai nạn nghề nghiệp đã xảy. Trong số các vũ công của đoàn Maxim về sau, có nhiều nghệ sĩ học trò của vũ sư Lưu Hồng nay đã định cư tại Hoa Kỳ, như nghệ sĩ Cát Phương, Kỷ Phương (em gái ca sĩ Phương Hồng Quế).. Bên cạnh các sân khấu tại Sài Gòn, người thầy của bộ môn nghệ thuật ca múa vũ dân tộc này cũng được mời tham gia chỉ đạo nghệ thuật trong nhiều cuốn phim như phim "Người Yêu Cuối Cùng" của đạo diễn Nguyễn Long (quá cố) nhưng chưa kịp trình chiếu thì Sài Gòn đổi chủ. Lưu Hồng còn được sự quý trọng từ nhà lãnh đạo quốc gia, khi có lần ông đã được mời trình diễn tại dinh độc lập với lời mời của tổng thống Ngô Đình Diệm và ông bà cố vấn Ngô Đình Nhu, vào năm 1962.
LƯU DIỄN KHẮP MIỀN ĐẤT NƯỚC
Hai thập niên từ 1960 cho đến ngày biến cố 30 tháng 04 năm 1975, đoàn vũ Lưu Hồng có mặt khắp nơi trên đất nước miền nam. Thời đó đất nước đang chinh chiến, đoàn vũ của Lưu Hồng và Mỹ Phương tham gia văn nghệ để ủng hộ khích lệ tinh thần những binh sĩ chiến đấu của miền nam. Cùng với các đơn vị văn nghệ của quân đội như Biệt Đoàn Văn Nghệ Trung Ương, Đoàn Văn Nghệ Hoa Tình Thương,.. những nghệ sĩ của đoàn vũ Lưu Hồng cũng được mời đến trình diễn cho lính xem. Có khi trình diễn ngay lúc chiến trường đang đạn pháo tơi bời. Có những kỹ niệm đáng nhớ vẫn còn đọng đầy trong tâm tưởng của nghệ sĩ Mỹ Phương hôm nay, khi nhắc lại thời gian đó. Cô nhớ những lần nghệ sĩ đi diễn đến tiền đồn mặt trận bằng những chuyến bay chở lính, chở súng đạn... khi trở về có lúc phải ngồi cùng chuyến bay chở những quan tài thi thể những chiến sĩ vừa nằm xuống ở mặt trận trở về Sài Gòn... vui có, sợ hãi có, ngậm ngùi có. Đời nghệ sĩ của những nghệ sĩ miền nam thời chiến tranh, cũng đã phải có những lần gắn bó với chiến trường như một người lính chiến. Họ trình diễn trong hầm trú đạn, hay trình diễn giữa đồi núi gió lộng thênh thang mùi tanh của máu người hay mùi khói của súng đạn. Nhưng nhìn những người lính, những nghệ sĩ lúc đó thấy mình vui. Mỹ Phương và bạn bè nghệ sĩ trong đoàn vũ Lưu Hồng thấy lòng nhen nhúm những niềm vui khi dành cho lính những giờ phút văn nghệ để quên vài phút những tiếng súng đạn. Nhưng nghệ sĩ Mỹ Phương vẫn còn nhớ luôn sự tri ân, quý mến của những chiến sĩ với người nghệ sĩ. Họ đón tiếp, tiếp đãi chân tình với những nghệ sĩ. Như một lần ăn cháo gà ngay căn cứ ở chiến trường, do tướng Lý Tòng Bá lúc đó thiết đãi những nghệ sĩ. Cho nên, dù đi hát các tỉnh thành ở những chuyến lưu diễn thuần túy văn nghệ cho khán giả, hay đi hát cho lính, hành trình những chuyến đi của đoàn vũ Lưu Hồng luôn có nhiều kỹ niệm mà chính Mỹ Phương đến ngày hôm nay vẫn giữ gìn trong tim óc một cách trân quý.
Những Lần Mang Chuông Vang Tiếng Xứ Người
Từ trái sang phải: Thúy Nga (thứ 2), Kim Xuân (người thứ 4), Hoàng Thi Thơ (thứ 5), Thu Thủy (thứ 6), Lưu Hồng (thứ 7), Kim Thu (thứ 8), Vân Sơn AVT (thứ 9), Cao Thái (thứ 10) ở Pháp năm 1968
Chuyến Lưu Diễn Cuối Cùng Ở Nhật Bản - Lần Chia Tay Tạm Biệt
Từ trái: Thúy Nga, Mộng Ngọc, Mỹ Hoa, Mỹ Phượng, Mỹ Phương, Cát Phương, Minh Thư, Mỹ Hà, ông bà Diệp Bảo Tân, Trần Văn Trạch; hàng dưới: Lưu Hồng, Hoàng Thi Thơ, Minh Phương, Văn Cường; trước khi đi Nhật tháng 3/1975, chụp trước vũ trường Maxim’s
Từ trái sang phải: Cát Phương, Mộng Ngọc, Mỹ Phương, Thúy Nga, Minh Thu chuyến đi trình diễn tại Nhật tháng 3 năm 1975 với hợp đồng 6 tháng
Gia Đình Đoàn Viên Tại Nước Nhật
Tại Nhật, vài nghệ sĩ tìm đường thoát qua nước khác tìm quy chế tỵ nạn để được định cư tại Mỹ hay nước khác ở Âu Châu. Có người may mắn đoàn tụ với người thân chồng vợ đã ra khỏi Việt Nam tỵ nạn tại các quốc gia thứ ba. Còn lại nhiều nghệ sĩ, cũng như với gia đình của Mỹ Phương, ở lại Nhật mưu sống bằng nhiều cách rất kham khổ. Họ làm việc cho nhà hàng, nấu bếp, những công việc lao động mà tư cách người nghệ sĩ chưa bao giờ có kinh nghiệm trong cuộc đời trước đó. Ở phương xa nước Nhật, cô Mỹ Phương đã làm lụng cực khổ chắt chiu tiền bạc gửi về cho chồng, con. Ở quê nhà, vũ sư Lưu Hồng cũng mưu tìm đường thoát khỏi Việt Nam. Cho dù Mỹ Phương đã nhiều lần khuyên chồng đừng nên vượt biển, khi cô thấy nhiều thảm cảnh xảy ra trên biển đông làm cô vô cùng lo sợ nghĩ đến chồng, con sẽ liều lĩnh tìm đường thoát ra biển đông. Cô gửi tiền, gửi quà về cho chồng, con.. nhưng lén lúc dấu những món tiền nhỏ trong các món quà. Bằng đủ cách khéo léo nhưng chỉ cầu may để đừng bị hải quan trong nước Việt Nam phát giác. Cầu may được ứng, nên mọi lần tiền dấu gửi về đều đến tay chồng. Vũ sư Lưu Hồng dành dụm tiền, mua chuộc một cơ hội lên thuyền nhỏ vượt biển cùng hai con. Chuyến vượt biển an lành, cha con Lưu Hồng đến tại tỵ nạn Pulau Bidong vào năm 1979. Ra đi hai bàn tay trắng, nhưng là một người có tiếng tại Việt Nam trước đó, có nhiều quen biết, nên ông được nhiều người giúp đỡ. Tại đây, ông xin tiếp xúc với phái đoàn chính phủ Nhật để xin được đoàn tụ với vợ Mỹ Phương. Họ tái ngộ tại nước Nhật chỉ sau 2 tháng tạm cư ở đảo Bidong. Sang đến Nhật, vất vả làm ăn nhưng vui mừng hạnh phúc gia đình đoàn tụ. Sau một thời gian, với con gái Ý Nhi và con trai Chí Minh đều lớn lên đi học tại Nhật. Cộng đồng người Việt tại Nhật những năm 1980, 1981 bắt đầu thành hình và đông hơn. Mang giòng máu nghệ thuật, nên Vũ Sư Lưu Hồng không chần chừ tạo cơ hội lập một đoàn múa. Trong nhóm ngoài vợ chồng vũ sư Lưu Hồng - Mỹ Phương, còn có vũ sư Văn Cường là em trai của Mỹ Phương, có Kiền chơi trống cũng là em trai Mỹ Phương, có cô Mi cũng là em em gái
Mỹ Phương chuyên múa, có cậu Nhi người em trai út Mỹ Phương, và Ỳ Nhi tức Lưu Huỳnh Châu là ca sĩ.
Lưu Huỳnh Châu (tức ca sĩ Ý Nhi sau này) trở thành ca sĩ trẻ tại Nhật và khi sang Mỹ cộng tác với Trung Tâm Thúy Nga và một số hãng băng nhạc khác.
Ý Nhi trong chuyến đi Pháp thu hình Paris Ny Night đầu tiên tháng 10 năm 1991. Từ trái: Don Hồ, 1 thân hữu, Phương Khanh, Ý Nhi, Trần Quốc Bảo trước nhà thờ Đức Bà Notre Dame.
Định Cư Cuối Đời Tại Nước Mỹ
Gia đình Lưu Hồng - Mỹ Phương sang Mỹ định cư từ năm 1988. Bắt đầu cơ hội cho các con của hai người nhiều hơn là cho chính họ. Tại nước Mỹ, con gái Ý Nhi đã có cơ hội trở thành một ngôi sao trẻ trong làng nhạc Việt suốt nhiều năm cho đến khi cô ngưng hát vào giữa thập niên 2000. Nhưng chính vũ sư Lưu Hồng cũng không ngừng truyền đạt kiến thức của mình cho những người yêu nghệ thuật, yêu múa vũ. Vũ sư Lưu Hồng tiếp tục vai trò chỉ đạo, cố vấn cho nhiều chương trình âm nhạc múa vũ nghệ thuật dân tộc. Ông sinh hoạt với nhiều hội đoàn văn hóa, trong đó ông đã hợp tác với đoàn văn nghệ dân tộc Lạc Hồng, trong vai trò cố vấn. Ngày nay ai cũng biết những chương trình rất giá trị dân tộc tính được trình diễn bởi đoàn văn nghệ ca múa vũ Lạc Hồng, của giáo sư Nguyễn thị Mai và giáo sư Nguyễn Châu. Vũ sư cũng đã giúp cố vấn cho đoàn vũ của chùa Lâm Tỳ Ni và Long Hoa tại Long Beach. Ông để lại nhiều công trình nghệ thuật mà các đoàn vũ trên đến nay vẫn còn sử dụng nhiều vũ khúc, vũ điệu do ông sáng tạo. Nhiều lần, Lưu Hồng cũng đã cộng tác với vai trò cố vấn nghệ thuật cho các chương trình âm nhạc của trung tâm Thúy Nga và nhiều trung tâm văn nghệ khác.
Đoàn vũ Lạc Hồng tại Hoa Kỳ, vũ sư Lưu Hồng đứng giữa, bên phải là cháu ngoại của ông (con gái Ý Nhi)