Điểm lại những khảo cứu về âm nhạc cổ truyền Nam Bộ


Ảnh internet

Bài viết giới hạn việc tổng lược, nhận xét, đánh giá khối lượng tài liệu của một số nhà nghiên cứu về âm nhạc cổ truyền Nam Bộ, đã công bố trên một số tạp chí mà chúng tôi sưu tập được. Vì vậy, đây chưa phải là toàn bộ các nghiên cứu, phê bình về âm nhạc cổ truyền Nam Bộ từ trước đến nay.

1. Dòng Cổ truyền dân gian Nam Bộ

Sự thiên di của văn hóa nghệ thuật từ cội nguồn miền Bắc đều gắn với lịch sử Nam tiến của dân tộc. Nam bộ, xét theo mối tương quan với các vùng đất cũ trong tiến trình phát triển mở mang bờ cõi của đât nước, là một vùng đất mới. Văn hóa nghệ thuật Nam bộ, do đó không hẳn xuất phát trực tiếp từ cội nguồn mà thông qua trạm trung chuyển là Thuận Hóa xưa, nơi đã định hình một nền tảng văn hóa mới trên cơ sở hội nhập văn hóa nghệ thuật thiên di của dân tộc với văn hóa bản địa. Hoặc nói như Gs. Tô Vũ trong bài khảo cứu “Âm nhạc cổ truyền Nam Bộ”[1]: “Âm nhạc Nam Bộ, là sự kế thừa truyền thống người Việt từ cái nôi châu thổ sông Hồng, qua chuyển giao ở một khâu trung gian là âm nhạc miền Ngũ Quảng, với trung tâm là Thừa Thiên – Huế”.

Hai thể loại dân ca tiêu biểu là Hò và Lý của Thuận Hóa xưa theo bước chân của những người lưu dân cấy vào vùng đất mới này tỏ ra hợp với “thổ nhưỡng”, đã phát triển mạnh mẽ và phong phú hơn nhiều so với cội nguồn thứ hai của nó là Thuận Hóa. Nguyễn Văn Hầu trong bài nghiên cứu “Hò miền Nam”[2] cho là Hò từ miền Trung theo đoàn người của Lễ Thành Hầu Nguyễn Hữu Cảnh đi khai phá vùng đất mới. Nhưng “tiếng hò ở đây không còn giống hệt tiếng hò ở chân đèo Hải Vân hay trên dòng sông Hương hôm nào nữa. Nó tha thiết não nùng hơn. Giọng hò miền Trung từ ấy vì biến thái địa lý và hoàn cảnh kinh tế, dần dần chuyển hóa, sai chạy…” Về thể loại Lý, nhạc sĩ Ngô Huỳnh trong bài “Dân ca Nam bộ, một kho tàng âm điệu dân gian phong phú”[3] cũng nhấn mạnh về sự phát triển này: “Từ bài Lý giao duyên của vùng Trị Thiên, bài Lý giao duyên của Nam Bộ đã tiến lên trong một quá trình hoàn chỉnh hơn”.

Hai chuyên khảo về Hò sưu tập được đều không phải của giới nghiên cứu âm nhạc, nhưng đây là những khảo cứu nghiêm túc về văn hóa dân gian.

Nguyễn Văn Hầu trong Hò miền Nam đã cho thấy vị trí quan trọng của Hò trong đời sống tinh thần của người dân miền Nam trong buổi đầu đi khai phá. Tác giả tỏ ra là người rất sành hò qua những tiếng dùng mà ông gọi là trong điệu nghệ hò, như: bắt-bỏ, buông-đối, đứt-nối…

Trong các tiểu mục Những trường hợp hò, Xếp loại những câu hò… Đặc biệt trong phần xếp loại, tác giả đã phân chia thành ba loại Hò chính: Hò mép (hò môi), Hò văn (hò sách) và Hò truyện

Mặc dù công bố trên tạp chí năm 1962 nhưng văn phong vẫn nặng nề theo lối cổ, sử dụng nhiều từ Hán Việt. Đây cũng là một đặc điểm trong các bài nghiên cứu ở miền Nam trước năm 1975; trong lúc, cùng thời điểm, thì văn phong nghiên cứu ở miền Bắc đã “trong sáng” hơn nhiều.

“Một vài suy nghĩ về Hò Nam Bộ” của Nguyễn Hữu Thu,[4] rõ ràng là một khảo cứu đầy đặn về thể loại này. Mặc dù vẫn là khảo cứu trên góc độ văn hóa dân gian, dân tộc học nhưng đã có những dẫn chứng, thí dụ bằng bản ký âm ngũ tuyến. Đặc biệt, tác giả đã dẫn ra 4 môtip điển hình quán xuyến trong Hò Nam Bộ mà theo ông, như những cung bậc riêng để nói lên đặc điểm của ngôn ngữ địa phương được phản ánh trong âm nhạc hò. Dù rằng, những môtip điển hình ấy chỉ nêu mà không hề được lý giải triệt để theo hướng nghiên cứu âm nhạc, nhưng cũng đã là một điều đáng quý trong lĩnh vực nghiên cứu này.

Vấn đề xếp loại, hai tác giả Nguyễn Hữu Thu và Nguyễn Văn Hầu không thống nhất về tiêu chí. Nguyễn Văn Hầu căn cứ vào cách sử dụng văn chương, chia Hò Nam Bộ làm ba loại chính: Hò mép (hay hò môi), Hò văn (hay hò sách) và Hò truyện; Nguyễn Hữu Thu thì căn cứ vào phương thức diễn xướng của nghệ thuật Hò mà chia thành Hò mép Hò huê tình. Riêng việc giải thích Hò mái ba3 mái chèo thì chưa thỏa đáng và không khác gì mấy cách giải thích của một số tác giả về Hò mái nhì Bình-Trị-Thiên.[5]

Nhạc sĩ Ngô Huỳnh và Trần Kiết Tường cũng có đề cập đến Hò trong bài viết về dân ca Nam Bộ. Mặc dù có một vài nhận xét âm nhạc trong hò nhưng chưa thể là một bài nghiên cứu âm nhạc mà chỉ dừng lại ở mức độ giới thiệu.

“Tản mạn quanh những điệu Lý”[6] là một khảo cứu gọn gàng nhưng súc tích của GS. NS. Tô Vũ. Được biế,t đây chỉ là một bài Tựa cho sưu tập 150 điệu Lý của 2 nhà nghiên cứu Lư Nhất Vũ và Lê Giang nhưng rõ ràng đã vượt qua ranh giới của kiểu lời tựa thông thường, mà trở thành một khảo cứu âm nhạc nghiêm túc, sắc sảo về thể Lý Nam Bộ.

Ngoài việc phân tích giá trị nội dung nghệ thuật của Lý, ông đã đưa ra những nhận xét quan trọng, chính xác về thể loại này như: “Lý là một thể hát dân gian đã có từ cái nôi xa xưa của truyền thống dân gian và được phát triển (rộng) ở miền Trung và (mạnh hoặc rất mạnh) ở miền Nam”. Tuy nhiên, nếu chỉ căn cứ vào các điệu hát Quan họ trong khối giọng vặt, nơi mà theo tác giả cho là thuộc thể điệu Lý để xác định Lý có từ cái nôi xa xưa của truyền thống, thì có phần chưa hết nhẽ. Bởi vì, theo các nhà nghiên cứu Quan họ và kể cả các nghệ nhân Quan họ, thì khối giọng vặt là những làn điệu được thu nhận từ dân ca của các vùng miền ngoài Quan họ do nhu cầu về bài bản để đối giọng trong các cuộc hát thi, mà trong đó có cả Lý của miền Trung và miền Nam.

Có thể thấy thể loại Lý phát triển rất mạnh ở Nam Bộ qua bài nghiên cứu “Đặc trưng nghệ thuật của dân ca Nam Bộ” của nhạc sĩ Lư Nhất Vũ.[7] Vì rằng trong 36 thí dụ dẫn chứng về đặc điểm âm nhạc dân ca Nam Bộ thì đã có 32 thí dụ là các điệu lý. Tất nhiên không phải hoàn toàn vì Lý có số lượng nhiều hơn hẳn các thể loại khác mà vì một lý do khác: Đó là sự hoàn chỉnh về âm nhạc của bản thân các điệu Lý. Bởi vậy, nên các vấn đề tác giả đặt ra như nghệ thuật phổ nhạc, phổ lời; các thủ pháp dân gian trong tiến hành giai điệu; phương pháp phát triển chủ đề âm nhạc trong dân ca Nam Bộ, chủ yếu là được nhặt ra từ các điệu Lý. Hoặc nói cách khác, không thể loại nào đầy đủ để dẫn chứng cho các vấn đề trên bằng thể loại Lý.

Đây là một bài nghiên cứu nghiêm túc, cẩn trọng, nhất là tác giả là người đã thực sự tiếp cận tư liệu tại nơi sinh ra nó, không thông qua những bản ký âm của người khác. Những nhận xét, phân tích âm nhạc rõ ràng không quá lệ thuộc vào Lý thuyết Âm nhạc cơ bản như một số bài nghiên cứu dân ca Nam Bộ thời kỳ trước đó.

Trong “Một cách nghe, một cách hiểu bài dân ca Nam Bộ: Lý ngựa ô”[8] nhạc sĩ Tô Đông Hải “khuyến cáo” không nên chỉ cảm thụ bài Lý ngựa ô qua dáng vẻ bên ngoài, là lời hát huênh hoang, hợm hĩnh của một anh công tử nhà giầu; mà: toàn bộ vấn đề dường như nằm ở một phía khác, mà người nghe chỉ có thể cảm nhận khi biết “nghe” cả phần nhạc lẫn phần lời trong bài hát. Nhạc sĩ cho đây là giấc mơ hạnh phúc của người nông dân ngày xưa tồn tại trong tâm tưởng một chàng trai nghèo, nên khi nghe kết hợp cả lời ca và giai điệu mới thấy nó mang một dư vị cay đắng, xót xa đến vậy. Bởi thế giai điệu bài hát mới chứa đựng cả sự “gập ghềnh” trong tâm tư người nghe lẫn sự hài hước đến chua xót… chứ không thấy sự hợm của hợm mình như câu chữ ở phần lời ca.

Những bài bình luận có giá trị như thế này không phải là nhiều. Để khơi gợi và hướng người nghe tới những ý tưởng đẹp đẽ của dân ca bao giờ cũng là việc làm cần thiết của những người nghiên cứu phê bình. Nhưng đối với điệu Lý ngựa ô thì xưa nay dường như mọi người đều cảm nhận nó chứa đựng một tinh thần lạc quan yêu đời của người nông dân trên bước đường đi mở cõi, chứ chưa bao giờ cho đó là lời lẽ hợm hĩnh của một cậu công tử nào đó. Hơn nữa, với đường nét giai điệu đẹp như của Lý ngựa ô thì khó lòng buộc mọi người cảm nhận cái dư vị cay đắng, xót xa và sự gập ghềnh trong tâm tư lẫn sự hài hước đến chua xót được ! Đến như điệu Lý ngựa ô xứ Huế, một vùng dân ca được xem là thấm đẫm chất buồn thương, mà điệu Lý này cũng vẫn phơi phới tính chất lạc quan, duyên dáng và trữ tình.

Vấn đề “Điệu thức trong dân ca Nam Bộ”[9] đã được nhạc sĩ Ngô Đông Hải đề cập dưới hình thức một chuyên khảo từ năm 1965. Trong hoàn cảnh đất nước còn bị chia cắt, nguồn tư liệu về dân ca chủ yếu là từ các cán bộ, bộ đội Nam Bộ tập kết ra Bắc mà tác giả đã hoàn thành và công bố một chuyên khảo nghiêm túc, khoa học về điệu thức quả là một sự nổ lực vượt bậc.

Có thể nói, một số kết quả nghiên cứu trong chuyên khảo này đến nay vẫn còn nguyên giá trị về mặt học thuật. Ít nhất là trong phương pháp, cách nhìn nhận về tính đặc thù trong truyền thống âm nhạc dân gian của mỗi vùng, miền; không quy đồng toàn bộ dân ca Việt Nam vào hệ thống thang 5 âm không bán cung. Vì như thế thang 5 âm nào cũng đều là dân tộc, đều là Việt Nam cả. Chẳng hạn, trong mục II, mà tác giả gọi là Điệu thức 5 âm đặc biệt có thể đã làm tiền đề cho cách đặt vấn đề trong các khảo cứu về thang âm một số tác giả thời kỳ sau này, như Oán 1, Oán 2 … rất đặc trưng của âm nhạc cổ truyền Nam Bộ.

Tuy nhiên, nếu cứ chuyên chú xem xét, phân tích trên cơ sở dạng thang âm điệu thức được tác giả tạm gọi là 5 âm đặc biệt thì giá trị khoa học của chuyên khảo càng cao hơn. Bởi vì, trong mục I, dù gọi là Điệu thức 5 âm không bán cung trong dân ca Nam Bộ và phân chia thành thành 5 dạng từ Điệu thức I đến Điệu thức V thì thực chất vẫn là xem xét trên hệ thống 5 âm Trung Hoa; dù gọi thế nào thì sự sắp xếp thứ tự trong chuyên khảo cũng vẫn là: Điệu thức I = Chủy; Điệu thức II = Vũ; Điệu thức III = Cung; Điệu thức IV = Thương; Điệu thức V = Giốc. Như vậy, nội dung của mục I và mục II đã tạo ra sự không nhất quán trong cách thức lựa chọn phương pháp khảo cứu, nếu không muốn nói là có thể bị hiểu khác đi: cái chính trở thành cái phụ; cái tất nhiên trở thành cái ngẫu nhiên, ngoại lệ, mà còn làm rối rắm thêm cho phần cuối, phần C: Sự kết hợp điệu thức trong dân ca Nam Bộ; là nơi tỏ ra tác giả đã bỏ nhiều tâm huyết để hệ thống, phân tích một cách công phu, cẩn trọng. Với nhãn quan ngày nay có thể còn nhiều vấn đề cần luận bàn, nhưng giữa thời điểm năm 1965 mà một tiểu luận khoa học âm nhạc được công bố như Điệu thức trong dân ca Nam Bộ thì đã là một khảo cứu nghiêm túc, và không phải là nhiều.

2. Dòng Cổ truyền chuyên nghiệp Nam Bộ

Ca nhạc tài tử hay Đờn ca tài tử hoặc chỉ là Nhạc tài tử, các nhà nghiên cứu đã thừa nhận là thoát thai từ nhạc thính phòng Huế – Ca Huế. GS. Trần Văn Khê gọi lối “nhạc tài tử” là con đẻ của lối “ca Huế” miền Trung. Ông cho biết những người học nhạc trong Nam, cũng “đàn Huế”. Khi nhạc tài tử được mang lên sân khấu thì còn được gọi là đờn cải lương. Lúc này nhạc tài tử không còn bó hẹp trong chỉ một số ít người thưởng thức mà đã được phổ biến rộng rãi trong công chúng qua sân khấu cải lương.

Nguyễn Ngu Í có ghi lại buổi nói chuyện của ông Cao Hoài Hà về “Nhạc Việt cổ truyền”.[10] Trong phần miền Nam, ông cũng cho biết nhạc tài tử thoát thai từ nhạc Huế và nảy nở mạnh ở vùng Lục tỉnh. Đặc biệt có chi tiết: “cụ Huỳnh Thúc Kháng lại chia nhạc tài tử ra mười loại như sau: Nhứt Lý, nhì Ngâm, tam Nam, tứ Oán, ngũ Điểm, lục Xuất, thất Chính, bát Ngự, cửu Nhĩ, thập Thu”. Không biết có phải có sự tham gia phân định của cụ Huỳnh Thúc Kháng không, nhưng cách phân chia này lại mang tính chất “hổ lốn”, vừa thể loại vừa giọng, hơi v.v…

Loạt bài viết về Vọng cổ khá phong phú. Ngoài việc tìm hiểu xuất xứ, sự biến chuyển của bài Vọng cổ qua các thời kỳ… một số bài còn nêu lên vị trí tác dụng và ảnh hưởng của Vọng cổ trong đời sống tinh thần của công chúng và xã hội.

Về vấn đề xuất xứ, trong bài “Thử tìm xuất xứ bài Vọng cổ”[11] của Nguyễn Tử Quang và bài “Nghệ sĩ Sáu Lầu người khai sáng bản Vọng cổ”[12] của Hà Huy Hà có chổ không thống nhất về xuất xứ lời ca của bài Vọng cổ. Theo Nguyễn Tử Quang, Dạ cổ hoài lang là một bài từ của một nhà sư Nho học uyên thâm với tư tưởng ẩn dật, pháp danh là Nguyệt Chiếu sống tại chùa làng Hòa Bình tỉnh Bạc Liêu khoảng năm 1920. Bài thơ sau đó vào tay ông Sáu Lầu và được ông phổ nhạc. Nhưng theo Hà Huy Hà thì chính nghệ sĩ Sáu Lầu đã đặt cả lời cả nhạc: “Nghĩ tới cảnh vợ tôi không sanh con, rồi bị bắt buộc ôm gói trở về nhà cha mẹ ruột làm sao khỏi nhớ thương chồng, tôi mới có ý nghĩ đặt một bản nhạc kể lể tâm sự nhà tôi. Tôi đã ứa nước mắt khi đặt bản nhạc mà tôi đặt tên là bản HOÀI LANG nghĩa là nhớ chồng”. Sau đó Thầy Thống (một thầy tuồng) lĩnh hội được ý tình đó mà đặt thêm vào hai chữ Dạ cổ trước Hoài lang; rồi sau đó nữa là Vọng cổ hoài lang cùng với việc kéo dài từ nhịp 2 (mỗi câu 2 nhịp) lên 4, 8, 16, 32 và 64.

Nguyễn Tử Quang (cũng trong bài trên) cho biết: sau 1945 có cuộc tranh luận về việc: Nên bỏ hay nên để bài Vọng cổ ? Có hai ý kiến đối lập nhau: Bên thiên về lí trí thì đòi bỏ; bên thiên về tình cảm thì đòi phải được giữ gìn. Mỗi bên đều có lập luận riêng và đều hợp lý. Tác giả bài báo đã đưa ra nhận xét, kết luận mang tính chất điều hòa hai lập trường trên. Thiết tưởng đây là một vấn đề mà cho đến cả ngày nay vẫn đang là đề tài đáng được quan tâm trong lĩnh vực đánh giá, bảo tồn các giá trị văn hóa nghệ thuật dân tộc. Đành rằng câu trả lời đã có, vì Dạ cổ hoài lang, linh hồn của Đờn ca Tài tử đã trở thành di sản văn hóa phi vật thể của thế giới.

Bài viết: “Truyền thống cổ nhạc Nam Phần”[13] của nhạc sĩ Phạm Duy năm 1960 viết nhân dự một buổi hòa nhạc của cụ Nguyễn Tri Khương – một nhạc sĩ kỳ cựu đã từng làm việc cho ngành sân khấu miền Nam từ hồi 1924. Ông đã từ giả sân khấu, về quê chỉ đạo một ban cổ nhạc địa phương và chủ trương soạn ra những lời ca mới cho các bài bản ca nhạc tài tử để phù hợp với những buổi dạ nhạc thôn quê như lễ cưới hỏi… mà nội dung xây dựng tình gia đình, tình vợ chồng, tình con cái…

Nhạc sĩ Phạm Duy cho rằng ý định của nghệ nhân Nguyễn Tri Khương là cao quý khi soạn những nội dung mới để răn dạy cô dâu chú rể trong cuộc vui ngày hôn lễ… nhưng tác giả đã nêu sự hoài nghi của mình về sự thành công của loại “ca nhạc hý sự” này. Vì xét cho cùng, theo ý tác giả, “địa vị của nhưng bài ca đố có lẻ phải ở nơi học đường hay những nơi tổ chức giáo dục công dân cộng đồng khác hơn là ở một lễ cưới là nơi cần sự vui vẻ hồn nhiên”. Những bài ca có nội dung chính đáng đó “sẽ vấp phải trở ngại là sự đòi hỏi cởi mở của người dân quê mà đời làm lụng vất vả hay chờ đợi những dịp vui chung để tìm giải thoát cho tình cảm”. Tất nhiên sự phê bình này chỉ là sự cảnh báo về công việc phát triển, cải biên nhạc cổ, còn đối với cụ Nguyễn Tri Khương tác giả đã công nhận “cụ là một nhạc sĩ đã làm giàu cho nhạc điệu miền Nam bằng một số sáng tác rất đặc biệt”“loại ca nhạc “tài tử” miền Nam đã bắt nguồn vào nhạc Huế và nhạc Quảng Nam. Đại đa số bài bản đã thoát thai từ những bài theo điệu Bắc điệu Nam hoặc điệu Quảng của miền Trung. Nhưng một loại ca nhạc theo điệu Oán đã do những nhạc sĩ sinh trưởng tại miền Nam tạo nên. Cụ Nguyễn-Tri-Khương là một trong những nhà sáng tác đã đưa loại ca nhạc “tài tử” tới giai đoạn ca nhạc “cải lương” nghĩa là đưa ca nhạc thường lên sân khấu”

Trương Đình Cử với “Đôi nhận xét về âm điệu vọng cổ”[14] dù rằng sự xem xét bị lệ thuộc nhiều vào những lý thuyết âm nhạc cơ bản của phương Tây nhưng đây là một bài nghiên cứu hiếm hoi ở Sài gòn vào năm 1960 bàn sâu vào nghệ thuật Vọng cổ trên các phương diện bài bản, diễn tấu, diễn xướng, ký âm, bảo tồn và soạn giả.

Tác giả bài viết đã phân tích, làm rõ ý nghĩa sự chuyển biến tiết điệu của bản Vọng cổ từ 4 nhịp lên 16, 32 nhịp v.v… Về âm điệu tác giả nhận xét là nghèo nàn không những do các câu nhạc lặp lại giống nhau mà còn ở việc không chuyển giọng (modulation). Nhưng chính điều này hình như tác giả cũng tự cảm thấy là khó có thể áp đặt vào Vọng cổ, với dân ca nhạc cổ Việt Nam nói chung. Trong lĩnh vực hòa đàn của nhạc công cổ nhạc miền Nam ít tôn trọng lòng bản hơn các nhạc công miền Trung v.v… Nói chung, những vấn đề mà bài nghiên cứu phê bình đặt ra đều là những vấn đề mang tính chuyên môn, cấp thiết cho sinh hoạt Vọng cổ thời bấy giờ, khác hẳn một số bài viết về Vọng cổ trong những năm sau này mà chúng tôi cũng tập hợp trong mục này (như bài “Xung quanh bài Vọng cổ”[15] của Thanh Tuyền và “Mấy ý kiến về ca vọng cổ trên đài Phát thanh”[16] của Đào Mộng Long, dù văn phong có hiện đại hơn nhưng cũng chỉ là phê bình góp ý người thể hiện vọng cổ là ca sĩ và nhạc công ở miền Bắc).

Tuy nhiên sự trình bày các vấn đề đó chưa được mạch lạc, chặt chẽ, khoa học và nhất là áp dụng không đúng một số kiến thức trong lý thuyết âm nhạc phương Tây vào việc phân tích nhạc cổ. Thiết nghĩ, vào năm 1960 sự ấu trĩ này là phổ biến, không những ở Sài gòn cũ mà trong cả bài viết của một số nhạc sĩ được đào tạo nghiêm túc ở miền Bắc như chúng tôi đã nêu qua ở các bài, các mục trước. Tất nhiên đó là tình hình chung, còn tính về thời điểm cũng như trong dân ca nhạc cổ miền Nam thì khảo cứu “Điệu thức trong dân ca Nam bộ” của nhạc sĩ Ngô Đông Hải v.v…lại đã vượt trội hơn nhiều về phương pháp, học thuật.

Phải đến năm 1978, mới có một công trình khoa học nghiêm túc của GS. Thụy Loan đăng trên bốn số của tạp chí Nghiên cứu Nghệ thuật: “Thử dẫn giải lại về một lý thuyết Điệu thức của người Việt qua bài bản tài tử và cải lương”.[17] Với 40 trang tạp chí, công trình tương đương một tập sách chuyên khảo đầy đặn về thang âm điệu thức người Việt. Công trình đã đề cập đến những vấn đề to lớn về vũ trụ quan của người Việt trong âm nhạc để luận giải thuật ngữ Bắc – Nam tồn tại trong quan niệm về điệu thức của người xưa; về luật âm – dương; về khái niệm ngũ hành được người Việt vận dụng một cách linh động trong điệu thức 5 âm v.v… Nhưng quan trọng nhất là tác giả công trình đã minh chứng có một cơ sở lý thuyết về điệu thức riêng biệt của người Việt dưới nhãn quan khoa học; về mối quan hệ, hay là sự gặp gở giữa cơ sở lý thuyết khoa học của người Việt và Trung Hoa, mà đặc biệt là người Hy Lạp, biểu hiện trong quan niệm về cấu trúc điệu thức, cách đặt tên cũng như cả quan điểm phân loại, đánh giá. Từ trên cơ sở khoa học đó GS. Thụy Loan đã trình bày, luận giải gần như toàn bộ hệ thống điệu thức của người Việt trong hai phần ĐiệuThể, mà ở đây, tác giả đã hệ thống hóa cao các mô hình điệu thức để giải thích sự vận động, phát triển của chúng qua khái niệm Bắc Nam biến thể, Ngũ cung biến hóa làm phát sinh những cấu trúc mới Ai, Xuân và đặc biệt là các cấu trúc của điệu thức Oán trong nhạc Tài tử và Cải lương.

Các vấn đề khoa học của đề tài được giải quyết một cách trọn vẹn, thích đáng. Tuy vậy, đối với thời điểm hiện tại, vẫn thấy một điều gì đó hoang mang: Liệu chúng ta xem xét điệu thức trong âm nhạc người Việt, nhất là nhạc thính phòng Huế và nhạc Tài tử – Cải lương trên cơ sở hệ thống âm thanh chia quãng tám thành 12 nửa cung đều đặn với các quảng 4 đúng, 5 đúng, quảng 3 thứ, 3 trưởng v.v… thì có tương thích với bản chất nhạc âm dùng trong âm nhạc người Việt chưa? Và cũng vì vậy, mà cuối công trình, việc tác giả đề xuất phương pháp sử dụng hợp âm màu sắc ngũ cung trong nhạc Việt, với một số hợp âm được nêu ra để dẫn chứng thì hầu như đều là những hợp âm có chứcdanh trong hệ thống hòa âm cổ điển châu Âu.

Năm 1996 tác giả Hoàng Sơn lại đề cập đến vấn đề này qua khảo cứu đăng trên Văn Hóa Nghệ Thuật số 7 “Âm nhạc sân khấu cải lương quá trình hình thành và phát triển”.[18] Ngoài việc sơ lược về sự hình thành và các giai đoạn phát triển của sân khấu cải lương, từ ca ra bộ, rạp hát, gánh hát và vở diễn v.v… tác giả lại chú trọng nhiều hơn đến phần âm nhạc của sân khấu cải lương, và theo ông, “âm nhạc cải lương đã lấy các bài ca tài tử làm cơ sở phát triển”. Âm nhạc tài tử, theo tác giả, bắt nguồn từ nhạc lễ và nhạc Huế do các nhạc sư từ Huế đưa vào, kể một số nho sĩ miền Nam đã từng ra Huế học nhạc để đưa vào Nam trong những thập niên cuối thế kỷ XIX. Nhưng lại không thể đồng nhất nhạc cải lương với nhạc tài tử và ca nhạc Huế vì những dị biệt rất đáng kể giữa ba loại nhạc, mặc dù chúng có nguồn gốc chung đi theo tuyến: Nhạc lễ + nhạc Huế → nhạc tài tử → nhạc cải lương.

Vấn đề liên quan đến nhạc lễ và Ca Huế tác giả nêu ra một hiện tượng đáng chú ý trong lịch sử âm nhạc truyền thống Việt Nam, đó là sự di cư vào Nam của nhiều nhạc công (và cả những nhạc quan) trong các dàn nhạc cung đình Huế với việc một nhạc quan nổi tiếng là Nguyễn Quang Đại, miền Nam gọi là cụ Ba Đội, vào Gia Định sinh sống bằng nghề truyền bá ca nhạc Huế…Những người say mê đờn ca lập tức tiếp thu thêm nguồn nhạc mới này, để hình thành những nhóm nhạc tài tử…

Nhạc tài tử không những tiếp thu nhạc Huế mà còn phát triển quy mô hơn về bài bản, thang âm điệu thức…Tác giả đi sâu thêm về sự phát triển cái vốn ban đầu, đó là sự “nhân vốn” theo hai cách thức: Chuyển biên các bản nhạc Huế sang phong cách ngôn ngữ miền Nam, đó là việc chuyển bài Tứ Đại cảnh Huế thuộc hơi dựng thành Tứ Đại hơi oán, gọi là Tứ Đại oán v.v…; Phương thức thứ hai là sáng tác những điệu mới theo cách mô phỏng hoặc phát triển chủ đề. Đó là trường hợp bài Dạ cổ Hoài lang của Cao Văn Lầu (Sáu Lầu) được xem là phát triển từ chủ đề điệu Hành Vân Huế…

Sự chuyển biến của các bài bản từ cái vốn ban đầu từ ca nhạc Huế vào nhạc tài tử là khá rõ ràng. Trường hợp 6 bản Bắc của Huế như Lưu Thủy thành Lưu Thủy Trường trong nhạc tài tử, Phú Lục thành Phú Lục Chấn, Bình Bán thành Bình Bán Chấn…

Có thể nói sự hoang mang đó 10 năm sau mới được giải quyết phần nào qua hai bài nghiên cứu của GS. Vũ Nhật Thăng: “Tìm hiểu thang âm của một số bài bản thuộc các hơi Xuân, Ai, Oán”[19]“Tìm hiểu thang âm của một số bài bản thuộc điệu Bắc”.[20] Cũng như công trình của GS. Thụy Loan, GS. Vũ Nhật Thăng cũng soi xét vấn đề thang âm điệu thức của người Việt nhưng thông qua các bài bản của nhạc Tài tử và Cải lương. Đặc biệt, tác giả đã tiếp cận phương pháp nghiên cứu mới, khoa học với những tính toán, đo đạc bằng toán học và âm học. Chẳng hạn việc đo quãng cách giữa các bậc bằng tỷ số cent (Đơn vị đo quãng đã được áp dụng rộng rãi trong âm thanh học và âm nhạc học, bằng 1/1200 của quãng tám: nửa cung bình quân bằng 100 cent) để so sánh sự tương ứng các quãng cách giữa thang âm bình quân và thang âm chia đều trong nhạc tài tử Việt Nam, mà cụ thể là trong Thang âm quá độ Xuân. Căn cứ vào kết quả đo đạc tác giả đã minh chứng khoảng cách khác nhau giữa các bậc của thang âm quá độ Xuân, từ: Hò Xự I Xang Xê Cống Phàn Liu và thang âm bình quân: Do Re Mi Fa Sol La Si Do. Chỉ có sự giống nhau về số cent giữa Hò – Líu = Do – Do (một quãng tám) đều bằng 1200 cent…

Các khảo cứu này, hiện đã được xuất bản thành sách “Thang âm nhạc Cải lương – Tài tử”.

Qua 30 bài nghiên cứu, giới thiệu về âm nhạc cổ truyền Nam Bộ sưu tập được, chúng tôi đã tuyển chọn ra được 19 bài phù hợp với mục đích của đề tài để tổng lược và nhận xét. Ở đây chúng tôi không làm công việc “tóm tắt nội dung” của các bài chuyên khảo để tổng kết mà chỉ nêu dẫn, nhận xét những vấn đề như quan điểm, thái độ của tác giả bài viết đối với dân ca, những phát kiến, phương pháp nghiên cứu, tiếp cận trong điều kiện hoàn cảnh lịch sử nửa sau thế kỷ XX… theo quan điểm riêng của mình.

Các bài viết về nhạc cổ truyền Việt Nam nói chung và Nam Bộ nói riêng, đa phần do các tác giả là nhà nghiên cứu văn hóa dân gian, dân tộc học sưu tầm nghiên cứu, dù sâu sắc về lịch sử, tổ chức xã hội, đời sống vật chất và phong tục, tín ngưỡng, tôn giáo…nhưng lại thiếu yếu tố âm nhạc học. Tuy vậy, các khảo cứu trên lĩnh vực này đã góp phần không nhỏ cho lĩnh vực nghiên cứu âm nhạc học (và sau này là dân tộc nhạc học). Đó là tạo tiền đề, cơ sở, tư liệu và kể cả cảm hứng, hứng thú cho các nghiên cứu âm nhạc học về sau; cũng như, trong điều kiện nghiên cứu liên ngành ở nước ta chưa có sự tổ chức đồng bộ nên những tư liệu về văn hóa học, dân tộc học đã bổ sung rất hữu ích cho các khảo cứu về âm nhạc.

Nhìn chung, qua một số những khảo cứu về âm nhạc cổ truyền Nam Bộ trong thời kỳ này đã để lại một hệ thống, một kho tàng tư liệu quý giá, giới thiệu cho công chúng biết được giá trị nghệ thuật truyền thống của dân tộc, điều mà trước 1945 chưa biết đến và chưa làm được bao giờ. Điều quan trọng trong khoa học âm nhạc là đã giải quyết được một số vấn đề về dị bản, cải biên, ký âm, bảo tồn, phát triển và nhất là đã đúc kết có hệ thống về giai điệu, thang âm điệu thức của nhạc cổ truyền Nam Bộ. Chính những điều này đã tạo cơ sở, phương hướng mang ý nghĩa “mở lối, dẫn đường” cho các nhà nghiên cứu âm nhạc thế hệ kế tiếp của thế kỷ XXI.

________________

TÀI LIỆU DẪN

Âm nhạc cổ truyền dân gian Nam Bộ

[1] Tô Vũ (1996), Âm nhạc cổ truyền Nam Bộ, T/c Văn Hóa Nghệ Thuật số 3.

[2] Nguyễn Văn Hầu (1962), Hò miền Nam, T/c Bách khoa số 135, 136.

[3] Ngô Huỳnh (1977), Dân ca Nam Bộ, một kho tàng âm điệu dân gian phong phú, T/c Nghiên cứu Nghệ Thuật số 4.

[4] Nguyễn Hữu Thu (1975), Một vài suy nghĩ về Hò Nam Bộ, T/c Dân tộc học số 4.

[5] Xem bài: Lược dẫn và nhận xét một số khảo cứu dân ca Bình Trị Thiên…

[6] Tô Vũ (1995), Tản mạn quanh những điệu Lý, T/c Văn Hóa Nghệ Thuật số 12.

[7] Lư Nhất Vũ (1983), Đặc trưng nghệ thuật của dân ca Nam Bộ. T/c Nghiên cứu Nghệ Thuật số 2.

[8] Tô Đông Hải (1990), Một cách nghe, một cách hiểu bài dân ca Nam Bộ: Lý ngựa ô, Văn hóa dân gian số 4.

[9] Ngô Đông Hải (1965), Điệu thức trong dân ca Nam Bộ, Những vấn đề Âm nhạc và Múa số 7, 8.

Phần cổ truyền chuyên nghiệp Nam Bộ

[10] Nguyễn Ngu Ý (1963), Nhạc Việt cổ truyền (phần một: miền Nam), Bách Khoa số 151.

[11] Nguyễn tử Quang (1959), Thử tìm suất xứ bài vọng cổ, Bách Khoa số 63.

[12] Hà Huy Hà (1976), Nhạc sĩ Sáu Lầu – người khai sáng bản vọng cổ, Sân khấu số 2

[13] Phạm Duy (1960), Truyền thống cổ nhạc Nam Phần, Tập san Thế Kỷ 20, số 4 tháng 10.

[14] Trương Đình Cử (1960), Đôi nhận xét về âm điệu vọng cổ, Bách Khoa số 93.

[15] Thanh Tuyền (1976), Xung quanh bản vọng cổ, Sân khấu số 2.

[16] Đào Mộng Long (1972), Mấy ý kiến về ca vọng cổ trên đài phát thanh Báo Văn nghệ số 471.

[17] Thụy Loan (1978), Thử dẫn giải lại về một lý thuyết điệu thức của người Việt qua bài bản tài tử và cải lương, Nghiên cứu Văn hoá Nghệ thuật số 5,6.

[18] Hoàng Sơn (1996), Âm nhạc sân khấu cải lương, quá trình hình thành và phát triển, Văn Hóa Nghệ Thuật số 7.

[19] Vũ Nhật Thăng (1987), Tìm hiểu thang âm của một số bài bản thuộc các hơi XUÂN, AI, OÁN, Nghiên cứu Văn hóa Nghệ thuật số 3.

[20] Vũ Nhật Thăng (1988), Tìm hiểu thang âm của một số bài bản thuộc điệu BẮC, Nghiên cứu Văn hóa Nghệ thuật số 2.

SÁCH THAM KHẢO

  • Nguyễn Hữu Ba (1961). “Dân ca Việt Nam”. (Tập 1- 2) Bộ QGGD, Sài Gòn.
  • Phạm Duy (1972) “Đặc khảo dân nhạc ở Việt Nam”. Nxb Hiện Đại, Sài Gòn.
  • Phạm Phúc Minh (1994) “Dân ca Việt Nam”. Nxb Âm nhạc, Hà Nội
  • Tú Ngọc (1994) Dân ca người Việt. Nxb Âm nhạc, Hà Nội.
  • Nguyễn Viêm (1996) “Lịch sử âm nhạc dân gian cổ truyền Việt nam”. Viện Âm nhạc, Hà Nội.
  • Tô Vũ (1996) “Sức sống của nền âm nhạc truyền thống Việt Nam”. Nxb Âm nhạc. Hà Nội.