Nhận định và đánh giá bộ phim “The Vietnam War” của hai đạo diễn Ken Burns và Lynn Novick

Người viết bài này đã xemxong hai lần toàn bộ 10 DVD của bộ phim TheVietnam War của 2 đạo điễn Mỹ KenBurns va Lynn Novick.  Lần xemthứ nhì được ghi chú cẩnthận và dựa trên các ghi chú đó,người viết xin trình bày trong bàiviết sau đây những nhận định vàđánh giá về bộ phim quan trọng này.

Nhận địnhtổng quát về bộ phim

Nhận xét về haiđạo diễn

Về phương diện chuyên môn, cả 2người đều đã đượcđào tạo chính quy, tốt nghiệp đạihọc, và có đầy đủ kinh nghiệmvà thành tích trong lãnh vực điệnảnh.

Về phương diện cá nhân, cả 2người, Ken Burns sinh năm 1953 và Lynn Novick sinhnăm 1962, đều còn quá nhỏ (Novick)hoặc chỉ đang học trung học (Burns) trongthời gian Chiến Tranh Việt Nam; họ không cótham gia chiến tranh tại VN, và cũng không thuộcphe bồ câu (dove) hay diều hâu (hawk), nên chúng ta cóthể nghĩ và tin tưởng rằnghọ sẽ có thể có được "phầnnào" sự trung thực vàkhách quan khi làm phim này.  Tuy nhiên, khi họlớn lên, và bước vàongưỡng cửa đại học (khoảng1971 cho Burns và khoảng 1980 cho Novick), chắcchắn họ đã phải chịu ảnhhưởng của tư tưởng chốngchiến tranh Việt Nam đang chế ngự trongxã hội Mỹ của giai đoạn đó, thểhiện qua chuyện một phần lớn cựuquân nhân Mỹ đã bị chính đấtnước và đồng bào của họđối xử tệ và ruồng bỏ họ màchúng ta đều đã biết.  Riêng về Burns thì khi đãtrưởng thành ông đã từng làmột thành viên lâu năm của Ðảng Dân Chủvà cũng đã thực hiện mộtvài phim ca ngợi Thượng Nghị SĩEdward Kennedy, một trong những tay chủ chốtcủa Ðảng Dân Chủ trong việc chống ChiếnTranh Việt Nam và trong chủ trương cắtbỏ viện trợ và bỏ rơi Việt Nam CộngHòa (VNCH) tại Quốc Hội Hoa Kỳ.

Mục tiêu vàđối tượng của bộ phim

Hai nhà đạo diễn Mỹ rõ ràng làđã thực hiện bộ phim này chongười Mỹ xem, với một số chủđề chánh như sau: i) tại sao Hoa Kỳ tham giavào cuộc chiến; ii) binh sĩ Hoa Kỳ đã tácchiến trong điều kiện như thế nào,và hành xử ra sao trong cuộc chiến;  iii) người dân Mỹđã nghĩ như thế nào, hànhđộng và phản ứng ra sao đốivới cuộc chiến; và, iv) tại sao pheCộng sản đã thắng.  Người Việt Nam, ngaycả người VN đã trở thành côngdân Mỹ, chỉ là khán giả phụ (secondaryaudience) của bộ phim.  Chính vì thế trongsuốt 10 tập của bộ phim này chúng ta không đượctrình bày cho thấy gì nhiều vềsự tham chiến và mức độthương vong của Quân Lực VNCH cũng nhưnhững hy sinh, tổn thất (về nhân mạng, vềtài sản, vv) của dân chúng miền Nam. Một nhà phê bình người Mỹ đãsử dụng một từ rất chínhxác --shortchange-- khi phê bình về sự thiếusót này của Burns và Novick: Dan Schindel đãviết như sau trong bài báo "In Ken Burns' VietnamWar documentary, claims of objectivity obscure patriotic bias,":  "Amongother things, the show shortchanges the experiences of Vietnamese civilians,..." (Xin tạm dịch sang Việt ngữ như sau:“Trong những chuyệnkhác, bộ phim đã thiếu sót trong việctrình bày những kinh nghiệm của dânchúng Việt Nam, …). (URL của bài báo: https://hyperallergic.com/408347/in-ken-burnss-vietnam-war-documentary-claims-of-objectivity-obscure-patriotic-bias/)

Tài liệusử dụng và đối tượngphỏng vấn

          Vìlà một phim tài liệu (documentary) Burns vàNovick đã sử dụng rất nhiều băngghi hình và ghi âm đã thu đượctrong thời gian của cuộc chiến, trongđó đặc biệt có nhữngbăng ghi âm mà bây giờ, sau khi đã cólệnh giải mật, chúng ta mớiđược nghe lần đầu tiên, thídụ các cuộc nói chuyện giữa TổngThống Lyndon B. Johnson và Bộ Trưởng QuốcPhòng Robert McNamara, giữa Tổng Thống Richard M.Nixon và Cố Vấn An Ninh Quốc Gia Henry Kissinger,vv.  Ðây là nhữngbằng chứng quý hiếm và không thểchối cãi được về ý đồcủa các nhân vật chủ chốt của Mỹtrong việc điều khiển cuộc chiến. 

Burns và Novick đã cócố gắng phỏng vấn nhiềungười của cả 4 phía, Hoa Kỳ, VNCH,và Bắc Việt + Việt Cộng, cho bộ phimnhưng qua con số những người nàychúng ta cũng có thể thấy rất rõràng có một sự chênh lệch rấtlớn:

                        - HoaKỳ:                     51 người (64.5%)

                        - VNCH:                        8 người (10.1%)

                        - Bắc Việt + Việt Cộng: 20 người(BV 14 + VC 6) (25.3%)

Số người Mỹ đượcphỏng vấn, thuộc đủ mọi từnglớp gồm dân sự, quân nhân, ký giả,ủng hộ chiến tranh, phản đối chiếntranh, và cả những người trốn quândịch, bỏ Mỹ chạy sang Canada, v.v., chiếmgần 2/3 tổng số ngườiđược phỏng vấn.  Về phía người VN,thì người của Miền Nam (VNCH) chỉcó 8 người; còn người thuộcphe Cộng sản thì tới 20 người,tức là hơn gấp đôi sốngười Miền Nam. 

Trong 8 người của VNCH thì 5 là quânnhân: 1) Trung Tướng Lâm Quang Thi, Tư LệnhTiền Phương của Quân đoàn 1 vào năm1975; 2) Chuẩn Tướng Phạm Duy Tất, Chỉhuy các Liên đoàn Biệt động quân trongcuộc triệt thoái của Quân đoàn 2 tháng3-1975; 3) Trung Tá Trần Ngọc Châu, Tỉnhtrưởng Kiến Hòa, sau là Tổng ThưKý Quốc hội; 4) Trung Tá Trần NgọcHuế, nổi danh trong trận đánh giảiphóng Huế trong vụ Mậu Thân năm 1968, về saubị bắt làm tù binh trong trận HạLào năm 1971; và 5) Thiếu Tá Trần NgọcToàn, tốt nghiệp Khóa 16 TrườngVõ Bị Ðà Lạt, thuộc binh chủng TQLC VNCH,lúc còn là Trung Úy, Ðại ÐộiTrưởng, Ðại Ðội 1, Tiểu đoàn 4TQLC, đã bị thương rất nặng trongtrận Bình Giã, về sau lên Thiếu tá vànăm 1972, làm Tiểu đoàn trưởngTiểu đoàn 4 TQLC.  Ba người cònlại là dân sự: 1) ông Ðại Sứ BùiDiễm; 2) ông Phan Quang Tuệ, một luật sư vàthẩm phán tại Mỹ, con trai của PhóThủ Tướng Phan Quang Ðán; và 3) bàDương Vân Mai Elliott, 1 phụ nữ VN cóchồng Mỹ, đã từng làm việc choRand Corporation, một think-tank của Mỹ đãtừng thực hiện nhiều dự áncho Cơ quan Trung Ương Tình Báo của HoaKỳ (Central Intelligence Agency = CIA).  Nói chung,ngoài bà Mai, những người cònlại được phát biểu rất ítvà rất ngắn. Qua các con số vềngười được phỏng vấnnày, chúng ta thấy rất rõ là hai nhàlàm phim đã không có một một sựđối xử công bằng đối vớidân chúng của Miền Nam, là một đa sốrất lớn của những nạn nhân trựctiếp hứng chịu nhiều nhứtnhững đau thương và tổn thất trongcuộc chiến tranh do Miền Bắc gây nên nhưnghoàn toàn không có một tiếng nói nàotrong bộ phim.  Ðiềunày cho thấy rõ lời phê bình đãghi lại bên trên của ông Schindel là rấtđúng.

Một số nhận định chung về bộphim

          Nhận định chung đầutiên là bộ phim này đã cung cấp chokhán giả một cái nhìn khá đầyđủ về Chiến Tranh Việt Nam: nguyên nhân,diễn tiến, hậu quả, phản ứng vàtác động của dân chúng.  Hai nhà đạo diễnđã bỏ ra một thời gian tươngđối đáng kể (10 năm) để truytìm và chọn lọc các tài liệu (phimảnh, âm thanh), phỏng vấn nhữngngười của các phe lâm chiến có liênhệ trực tiếp hay gián tiếp đếncuộc chiến, và trình bày quan điểmcủa cả hai phía. Nói chung, có thể nói đây làmột bộ phim đầu tiên của ngườiMỹ đã trình bày khá đầyđủ về Chiến Tranh Việt Nam, cuộcchiến tranh dài nhứt trong lịch sử HoaKỳ và cũng là cuộc chiến tranhđã gây chia rẽ trầm trọng nhứt tronglịch sử Hoa Kỳ (sau cuộc Nội ChiếnBắc Nam, The Civil War, 1861-1865).

          Nhận định chungthứ nhì là hai nhà làm phim đãcho thấy họ bị ám ảnh quá nhiềuvề điều kiện tác chiến của ngườilính Mỹ.  Tuyngười viết bài nầy không nắmđược thống kê từ bộ phim (bao nhiêucảnh, bao nhiêu phút, vv.), nhưng có thể nóirằng bất cứ ai đã xem phimđều phải công nhận rằng nhữnghình ảnh về các quân nhân Hoa Kỳ trong lúcđánh nhau (trong rừng núi, trên cácsườn đồi, trên các cánh đồng,trong các thành phố, các thị trấn,các căn cứ, vv.) tràn ngập trong bộphim, ngay cả trong các Episode đang nói vềnhững chuyện gì khác chớ khôngphải về các trận đánh.  Một thí dụ rấtrõ ràng là Episode 1, mang tựa đềlà Déjà Vu, 1858-1961, dành cho việc tìmhiểu nguyên nhân đưa đến cuộc chiến;năm cuối cùng trong tựa đề,tức năm 1961, là năm mà Hoa Kỳchưa đưa quân bộ chiến vào Việt Nam;nhưng trong tập 1 này vẫn có pha trộnkhá nhiều những đoạn phim trìnhbày những cảnh đang tác chiến củalính Mỹ.

          Nhận định chungthứ ba là hai nhà làm phim đã cócố gắng nhiều để giữ sựkhách quan và trung thực cho bộ phimbằng cách không trình bày trựctiếp nhận định và quan điểm củahọ về cuộc chiến. Gần như trong suốt 10 tập của bộphim, hai nhà đạo diễn đã để chonhững người được phỏngvấn nói lên quan điểm của họ mộtcách tự do.  Dođó người xem phim được nghe nhữnglời phát biểu xuất phát từsự hiểu biết và tin tưởngcủa những người thuộc cả hai phe:của những người Mỹ ủng hộchiến tranh cũng như của nhữngngười Mỹ chống chiến tranh; củangười Việt Miền Bắc cũng nhưcủa người Việt Miền Nam. Rõ ràngchủ trương của hai nhà làm phim nàylà chỉ muốn cung cấp cho người xem phimcàng nhiều càng tốt những thông tintừ mọi góc cạnh, mọi quan điểmđể mọi người của hai phe (ủnghộ và chống Chiến Tranh Việt Nam) cóthể mở rộng được tầmnhìn của mình và do đó có thểhiểu rõ hơn vấn đề và cóthể đi đến chổ hiểu nhau và thôngcảm nhau.  Ngay trong phầnmở đầu của mỗi đĩa DVD haiđạo diễn đếu cho lập đi lậplại tiêu đề Conflict / Perspective / Understanding,và nêu rõ lập trường của họ: Becausewe believe with perspective comes understanding.

          Nhận định chung saucùng là, rất có thể vì tính sẵncó để sử dụng (availability) củatài liệu, bộ phim đã sử dụngrất nhiều tài liệu về phía Hoa Kỳ,với một lượng cũng khá quantrọng tài liệu của phía Bắc Việt,còn tài liệu về phía VNCH thì rõràng là rất ít.

Nhận định cụ thể về từngtập của bộ phim

Tập 1: Episode 1, “Déjà Vu” (1858-1961)

          Chủ yếu giớithiệu Hồ Chí Minh (HCM) như là một ngườiyêu nước đã lãnh đạo Ðảng Cộngsản Việt Nam (ÐCSVN), và phong trào Việt Minh (VM)chống lại thực dân Pháp và sau cùngdành được độc lập cho ViệtNam.  Nhưng tại HộiNghị Genève năm 1954, dưới áplực của Liên Xô và Trung Cộng, ông phảichấp nhận Việt Nam bị tạm thời chiađôi tại vĩ tuyến 17, để chờTổng Tuyển Cử vào hai năm sau (1956)để thống nhứt lại đất nước.  Nhưng sau đó, tạiMiền Nam, Hoa Kỳ đã dựng lên chếđộ Ngô Ðình Diệm và sau đó làChính phủ VNCH chống lại Miền Bắc.  Cuộc Tổng Tuyển Cửđã bị hủy bỏ. Do đó, Miền Bắc không còn cáchnào khác hơn là phải gây chiến đểchiếm cho được Miền Nam hầu thốngnhứt đất nước.  Như vậy, Miền Bắclà “good guy” và VNCH là “bad guy.”

          Nói chung, luậnđề trên có bao gồm một số sựthật lịch sử. Tuy nhiên, trong khi trình bàyluận đề trên, hai nhà làm phim không hoàntoàn trung thực vì đã cố tìnhbỏ qua, không đề cập đến một số sựthật lịch sử khác cũng rất quantrọng như sau:

·      Từ sau khi Phápđặt ách thống trị tại Việt Nam, vềtổ chức và đảng phái, ÐCSVN khôngphải là đảng phái chính trị đầutiên và duy nhứt chống lại thực dânPháp.  Ngay từcuối thế kỷ 19 đã có nhiều tổchức, phong trào kháng Pháp như VănThân, Cần Vương, Ðông Kinh Nghĩa Thục, Ðông Du,vv.  Sang đầu thếkỷ 20 đã xuất hiện khá nhiềuchính đảng chống Pháp như Việt NamQuốc Dân Ðảng (VNQDÐ), Ðại Việt, Duy Dân, TânViệt Cách Mạng Ðảng, vv.  Cuộc khởi nghĩacủa VNQDÐ năm 1927 đã xảy ra ngay cảtrước khi ÐCSVN ra đời (1930).  Về cá nhân thì HCM cũngkhông phải là nhà ái quốc đầu tiênvà duy nhứt chống Pháp:người Việt Nam không ai là không biết têncác nhà ái quốc chống Pháp như sau: cuốithế kỷ 19 là các vị như Nguyễn TrungTrực, Thủ Khoa Nghĩa, Thủ Khoa Huân, PhanÐình Phùng, Nguyễn Thiện Thuật, Hoàng HoaThám; sang thế kỷ 20 là các vị như PhanBội Châu, Phan Châu Trinh, Kỳ Ngoại HầuCường Ðể, Tạ Thu Thâu, Nguyễn An Ninh, PhanVăn Hùm, vv.

·      Tập 1 hoàn toànkhông đề cập gì cả đến Chínhphủ Trần Trọng Kim là Chính phủđầu tiên của Việt Nam đã tuyên bố độclập và xóa bỏ tất cả các hiệpước bất bình đẳng màPháp đã buộc triều đình NhàNguyễn phải ký kết. Trong Tập 1 có nhắc đến nạnđói tại Miền Bắc vào đầunăm 1945, có đề cập đến vụ VMphá kho gạo để phân phối cho dân, nhưnghoàn toàn không nói gì cả đếnchủ trương cứu đói là 1 trongcác chương trình hoạt động củaChính Phủ Trần Trọng Kim.[1]  Tập 1 cũng hoàn toànkhông nói gì đến Cựu Hoàng BảoÐại là người đã lập ra QuốcGia Việt Nam (tiền thân của VNCH), và đãcó công đấu tranh với Chính phủPháp để lấy lại đất Nam Kỳ choViệt Nam, và cũng chính Cựu Hoànglà người đã bổ nhiệm ông NgôÐình Diệm.

·      Tập 1 cũng cóđề cập đến Cải Cách Ruộng Ðất(CCRÐ) ở Miền Bắc nhưng nói làviệc này được thực hiện saukhi ÐCSVN đă nắm quyền sau tháng 7-1954;điều này không đúng hoàn toàn vìthật ra CCRÐ đã bắt đầu đượcthực hiện từ năm 1953 và đólà lý do khiến cho đồng bào MiềnBắc thấy rõ bộ mặt thật củaÐCSVN khiến cho một số khá đông đãbỏ kháng chiến trở về thành, và,sau khi Hiệp Ðịnh Genève được kýkết vào ngày 20-7-1954, đã rời bỏMiền Bắc di cư vào Nam.  Tập 1 cũng có đềcập vể việc ÐCSVN thanh toán các đảngphái quốc gia vào năm 1946.  Trong phim có đoạntrình bày là trong lúc HCM đi Phápdự Hội Nghị Fontainebleau thì ởnhà Võ Nguyên Giáp đã thanh toán cácđảng phái quốc gia. Trong một đoạn khác, khiđược phỏng vấn, Trung TướngLâm Quang Thi cũng có nói về việc VM thủtiêu nhiều người. Tất cả những điều này chỉđược trình bày phớt qua, rấtngắn, chỉ trong vài chục giây đồnghồ mà thôi; nếu không thật sự chú tâm xemphim, rất có thể khán giả không biết làcó các đoạn phim này.  Sự thật lịchsử là việc thanh toán các nhà áiquốc thuộc các đảng phái quốc giachống Pháp rộng lớn hơn rất nhiềuvì đó là cả một chính sáchcủa ÐCSVN.  Và vìthế, để có thể sống còn, mộtsố rất đông các thành viên của cácchính đảng quốc gia chống pháp, cũngnhư các nhân sĩ trí thức đã thamgia kháng chiến chống Pháp (đặc biệtlà trong Nam ngay từ Mùa Thu 1945, chớ khôngphải đợi đến sau ngày 19-12-1946là ngày HCM ra lệnh toàn quốc khánhchiến) đã bỏ kháng chiến trởvề thành và sau đó tham gia vào Chínhphủ Quốc Gia Việt Nam do Cựu Hoàng BảoÐại lãnh đạo. Một trường hợp điểnhình của nhân sĩ trí thức củaMiền Nam là ông Trần Văn Hương: khi khángchiến bắt đầu ở Nam Bộ, ông thamgia ngay và đảm nhận vai trò Chủ TỊch ỦyBan Hành Kháng (Hành Chánh Kháng Chiến) củaTỉnh Tây Ninh, nhưng sau khi thấy rõ bộ mặtthật của VM, ông đã bỏ về thành,nhưng dứt khoát không chịu làm việc choPháp cho đến khi ông Ngô Ðình Diệm vềnước chấp chánh ông mới chịunhận chức Ðô Trưởng Sài Gòn.  Tất cả nhữngđiều này cho thấy Chính phủ VNCH tại MiềnNam dứt khoát không phải là “bad guy” nhưbộ phim này muốn trình bày với ngườixem phim.

Tập 2: Episode 2, “Riding the Tiger” (1961-1963)

          Tập 2 trình bàynhững diễn tiến quân sự và chínhtrị quan trọng của giai đoạn 1961-1963 tạiMiền Nam đưa đến sự sụpđổ của nền Ðệ Nhứt Cộng Hòa:1) Trận Ấp Bắc; 2) Những khíacạnh tiêu cực của quốc sách ẤpChiến Lược làm mất lòng dân; và,3)Vụ đàn áp thô bạo Phật Giáo củachính quyền độc tài Ngô Ðình Diệm đưaHoa Kỳ đến quyết định giúpđảo chánh ngày 1-11-1963 của cáctướng lãnh lật đổ chếđộ nhà Ngô. 

          Về Trận ẤpBắc (ngày 2-1-1963), bộ phim trình bàykhá đầy đủ vì đây là trậnđánh quan trọng đầu tiên ở cấptiểu đoàn của lực lượngViệt Cộng tại Miền Nam. Một cách khách quan thì chúng taphải công nhận đây là một trậnđánh mà quân đội VNCH bị tổn thấtkhá nặng, với khoảng 80 binh sĩtử trận và khoảng gần 200 bịthương; Hoa Kỳ có 3 cố vấn tửtrận, 5 trực thăng bị phá hủy.  Trong bất cứ cuộcchiến tranh nào, ở bất cứthời đại nào, từ Ðông sang Tây,đối với binh gia chuyện thắng bạilà chuyện thường tình, có khi tathắng mà cũng có khi địchthắng.  Từ khi MặtTrận Giải Phóng Miền Nam (Việt Cộng hayviết tắt là VC) được chínhthức thành lập vào tháng 12-1960,lực lượng VC đã thua Quân Ðội VNCH (QÐVNCH)biết bao nhiêu trận (chỉ xin ghi ra đây mộtthí dụ cụ thể là Trận Cao Lãnh,Kiến Phong, ngày 28-3-1961, “hơn2 tiểu đoàn V.C. vây đánh 1 tiểuđoàn V.N.C.H. 200 V.C. chết và bịthương; V.N.C.H.: 11 chết, 23 bị thương.” [2])mà bộ phim không hề nói đến, nhưng khiQÐVNCH bị thiệt hại nặng tại ẤpBắc thì Tập 1 nói rất rõ chitiết, và kết luận là QÐVNCH không cókhả năng, nhưng chủ yếu chỉ là dựavào lời kể của Neil Sheehan là một kýgiả phản chiến nổi tiếng, và của sĩquan cố vấn Mỹ là James Scanlon, hoàn toànkhông có một lời phản biện nàocủa các sĩ quan QÐVNCH đã có thamdự trận đánh, đặc biệtlà Chuẩn Tướng Lý Tòng Bá,lúc đó còn là một Ðại Úy, ÐạiÐội Trưởng Ðại Ðội 7 Cơ GiớiM113, chính là vị sĩ quan chỉ huy cácThiết Vận Xa M113 trong trận đánh.  Chuẩn Tướng Bá đãtừng viết như sau trong cuốn hồi kýcủa ông : “Ðến đây, tôi tưởng cần nóirõ “sự thật trận đánh vàdiễn tiến của nó không giống như NEILSHEEHAN viết kể trong quyển sách của anh-cuốn “A BRIGHT SHINING LIE” xuất bản năm 1988” [3] và ông cũng đãphê bình James Scanlon khá nặng nề trongcuốn hồi ký này.[4] (Tướng Bá mớimất vào ngày 22-2-2015 tại Nevada, Hoa Kỳ; vậykhi Ken Burns va Lynn Novick bắt đầu làm bộphim này, Chuẩn Tướng Bá vẫn cònsống, nhưng ông đã không được nhữngngười làm phim phỏng vấn).

          Về vấn đềẤp Chiến Lược (ACL), nhữngđiều được trình bày trong phimđều đúng. Chính quyền VNCH đề ra quốc sách ACLrất hay và cần thiết, nhưng cách làmthì quá tệ hại, đưa đến kếtquả ngược lại là làm mất lòngdân, với những lỗi lầm rấtnặng nề như sau: 1) quá nôn nóng nênchỉ chú trọng về số lượng; 2) dođó không có đủ thì giờđể thuyết phục người dân; 3) thiếukiểm soát, để mặc và dung túngcho các viên chức địa phương (tỉnh,quận trưởng) áp bức dân chúngphải làm không công, trong khi đó tiền công,tiền bồi thường của chính phủtrả cho dân, do viện trợ Mỹ giúp thanhtoán, họ đều bỏ túi.

          Về vụ đànáp Phật Giáo năm 1963, những điềutrình bày là hoàn toàn chính xác.  Từ năm 1960 trởđi, Chính phủ Ngô Ðình Diệm đã đivào con đường độc tài giađình trị, tạo ra sự căm ghétcủa dân chúng Miền Nam, mà các đạidiện chân chính là các nhân sĩ vàchính trị gia đã ký vào bản Tuyên NgônCaravelle (tháng 4-1960)[5].  Ðasố (10/18 = 55%) những vị đã ký têntrong Tuyên Ngôn này đều đã từnghợp tác với ông Ngô Ðình Diệm khi ôngmới về nước chấp chánh vàonăm 1954, trong đó có một số vị đãtừng là Tổng, Bộ Trưởng trongChính phủ của ông Diệm, thí dụ nhưcác ông Phan Khắc Sửu, Trần VănÐỗ, Huỳnh Kim Hữu, Lê Ngọc Chấn, Lê QuangLuật, Nguyễn Tăng Nguyên, Phạm HữuChương, và Lương Trọng Tường.  Ông Diệm cũng mất dầnsự ủng hộ của Chính phủ Hoa Kỳ,và sau cùng, ngay chính nhữngngười bạn Mỹ thân cận và ủnghộ ông mạnh mẽ nhứt cũng rờibỏ ông.[6]          Cuộckhủng hoảng Phật Giáo năm 1963 là giọtnước tràn ly; Chính phủ Hoa Kỳ không cònđủ kiên nhẫn với Chính phủ NgôÐình Diệm nữa, và đã bậtđèn xanh cho các tướng lãnhthực hiện cuộc đảo chánh ngày1-11-1963 lật đổ chế độ độctài gia đình trị của nhà Ngô trongsự vui mừng, hân hoan (thật lòng,chớ không phải do chính quyền dàndựng) của người dân Miền Nam nhưngchắc chắn không phải tuyệt đốinhư ghi nhận sau đây trong Tập 2 này củabộ phim: “Ambassador Lodge reported to Washington that “every Vietnamese has asmile on his face today.” (Xin tạm dịch sang Việtngữ như sau: “Ðạisứ Lodge báo cáo về Hoa Thịnh Ðốnrằng “hôm nay người Việt ai cũng vuicười.””)

Tập 3: Episode 3, “The River Styx” (January 1964 – December 1965)

          Tập 3 trình bàynhững diễn biến về quân sự vàchính trị tại Việt Nam và Hoa Kỳđã thúc đẩy Chính phủ Hoa Kỳ,dưới sự lãnh đạo củaTổng Thống Lyndon B. Johnson, người kếnhiệm sau khi Tổng Thống John F. Kennedy bị ámsát chết ngày 22-11-1963 tại Dallas, Texas, điđến quyết định đưa quân bộchiến vào Việt Nam: 1) Trận Bình Giã (cuốinăm 1964 và đầu năm 1965); 2) Biến cốVịnh Bắc Việt; 3) Bầu cử TổngThống năm 1964 tại Hoa Kỳ; và 4) TQLC Hoa Kỳđổ bộ vào Ðà Nẵng ngày 8-3-1965.

          Trận Bình Giã làmột trận đánh mà Tiểu Ðoàn 4 TQLC, QÐVNCH,đã bị tổn thất rất nặng nhưsau: 1) Chết: 11 sĩ quan + 18 hạ sĩ quan + 83 binhsĩ = 112 người; 2) Mất tích: 2 sĩ quan+ 10 hạ sĩ quan + 70 binh sĩ = 82 người;và 3) Bị thương: 5 sĩ quan + 15 hạ sĩquan + 100 binh sĩ = 120 người.[7]  Một lần nữa,cũng giống như đối với TrậnẤp Bắc trong Tập 2, bộ phim đãtrình bày rất đầy đủ, tỉ mỉvì đây cũng là một trận mà quânđội VNCH bị tổn thất nặng.

          Về Biến cốVịnh Bắc Việt, Tập 3 cũng trìnhbày khá đầy đủ và trungthực.  Cuốn phimđã đưa ra một thông tin mới rấtđáng chú ý: đó là việc TổngThống Johnson đã ra lệnh thảo một NghịQuyết sẽ đệ trình Quốc Hội cho phépChính phủ sử dụng các biện phápquân sự tại Việt Nam trước khi xảyra biến cố này.  “Johnsonfelt he did not yet have the political capital to take further action inVietnam, but he asked his aide, William Bundy, to draft a congressionalresolution authorizing him to use force in Vietnam if needed to be sent toCapitol Hill when the time was right.” (Xin tạm dịch sangViệt ngữ như sau: “Johnsoncảm thấy ông không có đủ vốn liếngchính trị để làm mạnh hơn tại ViệtNam, nhưng ông đã bảo người phụtá của ông, Willian Bundy, soạn thảo mộtnghị quyết của quốc hội cho phép ôngsử dụng vũ lực tại Việt Namnếu cần để gửi cho Quốc Hội khiđến lúc”).  Nếu điều nàyđúng thật thì có vẻ như Johnsonđã giăng bẫy và Bắc Việtđã sập bẫy trong vụ Biến cố VịnhBắc Việt vào đầu tháng 8-1964.  Cũng theo Tập 3 này,rất có thể chính Lê Duẩn làngười đã ra lệnh tấn công chiếnhạm Mỹ, và HCM hoàn toàn bị bấtngờ.  Nghị QuyếtVịnh Bắc Việt đã đượcQuốc Hội Hoa Kỳ thông qua vào ngày 7-8-1964với một đa số tuyệt đối: tạiHạ Nghị Viện số phiếu chấp thuậnlà 416/0 và tại Thương Nghị Việnlà 88/2.

          Về cuộc bầucử Tổng Thống Mỹ năm 1964, TổngThống Johnson đã đánh bại ứngcử viên của đảng Cộng Hòa làThương Nghị Sĩ Barry Goldwater của tiểu bangArizona bằng một chiến thắng rấtlớn như sau:

·      Phiếu dân bầu:Johnson: 43.127.041 (61.1%); Goldwater: 27.175.754 (38.5%)

·      Phiếu cử triđoàn: Johnson 486 (44 tiểu bang + DC); Goldwater 52 (6tiểu bang)

TổngThống Johnson đã có được cái “politicalcapital” (vốn liếngchính tri) mà ôngmuốn và cần.  Ngày8-3-1965, 2 tiểu đoàn đầu tiên của TQLC Hoa Kỳđổ bộ vào Ðà Nẵng.  Về biến cố quan trọngnày, bộ phim có phỏng vấn ông ÐạiSứ Bùi Diễm.   ÔngDiễm, lúc xảy ra biến cố này đanglà Bộ Trưởng Phủ ThủTướng của Chính phủ Phan Huy Quát,có trình bày, giống như ông đãviết trong cuốn hồi ký của ông, làChính phủ VNCH hoàn toàn bị bấtngờ.  Ngườiviết bài này không nghĩ là Chính phủVNCH bị hoàn toàn bất ngờ, đãcó tìm hiểu thêm về biến cố này,và đã trình bày một số ýkiến trong một bài viết.[8] Sau đó quân Mỹ tiếp tục ồạt đổ vào VNCH theo yêu cầu củaTướng William C. Westmoreland, Tư Lệnh MACV(Military Assistance Command – Vietnam = Bộ Chỉ Huy ViệnTrợ Quân Sự – Việt Nam), và đếncuối năm 1965, quân số Hoa Kỳ tại Miền Namđã lên đến tên 184.000 quân.

Cũngtrong Tập 3 này, các nhà làm phim đãtrình bày một chi tiết không đượcchính xác như sau: “Between January 1964 and June 1965 therewould be eight different governments.” (Xin tạm dịch sangViệt ngữ như sau: “GiữaTháng Giêng 1964 và Tháng Sáu 1965 sẽ cótới 8 chính phủ khác nhau”).  Thật ra chỉcó 5 chính phủ như liệt kê dướiđây: [9]

·      Chính phủ NguyễnNgọc Thơ: từ 3-11-1963 đến 7-1-1964

·      Chính phủ NguyễnKhánh:từ 8-1-1964 đến 3-11-1964

·      Chính phủ TrầnVăn Hương: từ 4-11-1964 đến 15-2-1965

·      Chính phủ Phan HuyQuát: từ 16-2-1965 đến 15-6-1965

·      Chính phủ NguyễnCao Kỳ: từ 19-6-1965 trở đi

Tập 4: Episode 4, “Resolve” (January 1966 – June 1967)

          Tập 4 trình bày giaiđoạn Hoa Kỳ quyết tâm leo thang chiến tranh,tiếp tục đổ quân vào Việt Nam, nângtổng số quân Mỹ lên đến trên 450.000giữa năm 1967.  Giaiđoạn này cũng là thời gian phongtrào phản chiến tại Mỹ phát triển thêmrất mạnh mẽ, đặc biệt ngay tạiQuốc Hội Hoa Kỳ với việcThượng Nghị Si William Fulbright, Chủ TịchỦy Ban Ngoại Giao Thượng Viện, tổchức và chủ trì các cuộcđiều trần về Chiến Tranh Việt Nam (FulbrightHearings).  Vì nhu cầutăng quân tại Việt Nam, Hoa Kỳ phải tăngmức động viên từ 10.000 lên 30.000 thanh niênmột năm, và bắt đầu động viêncả sinh viên.  Do đóphong trào phản chiến bắt đầu xâmnhập vào và phát triển tại các trườngđại học.  Thờigian này cũng là lúc Bộ TrưởngQuốc Phòng McNamara bắt đầu hoài nghivề khả năng có thể thắng trận tạiViệt Nam, và ra lệnh cho người của ôngtìm hiểu cặn kẽ các biến cốđã khiến cho Hoa Kỳ bị dính líuvào Việt Nam, đưa đến việc rađời sau này của bộ tài liệu ThePentagon Papers (Hồ sơBộ Quốc Phòng Hoa Kỳ).

          Trong suốt Tập 4này, hoàn toàn không có một hình ảnh,đoạn phim nào về hoạt động của QuânLực VNCH (QLVNCH) trong thời gian này, trong khithống kê cho thấy trong khoảng thời gian 18tháng này QLVNCH đã thực hiện tấtcả là 69 cuộc hành quân có đặttên (phần nhiều mang tên Cửu Long hoặc LamSơn kèm theo một con số thứ tự,không kể các trận kịch chiến khác) [10, 11] Trong suốt Tập 4này, hai đạo diễn chỉ trình bày toànlà cảnh các trận đánh giữa quânMỹ và quân CSBV hoặc các cảnh liên quantới quân CSBV và các hoạt động trên đườngmòn Hồ Chí Minh.  Chỉcó 2 vụ việc có liên quan đến VNCH đượctrình bày trong phim: 1) Hội Nghị Honolulu (tháng2-1966) giữa Tổng Thống Johnson và haitướng Nguyễn Văn Thiệu và NguyễnCao Kỳ; 2) Vụ Biến Ðộng Miền Trung (cáctháng 3-6 năm 1966), với 1 câu phát biểurất mỉa mai về QLVNCH như sau:  “But from his command post on a hilltop outsidethe city, an American Marines lieutenant had watched in disbelief as twobattles unfolded simultaneously: in the west, his fellow Marines were fightingthe Viet Cong; in the east, the South Vietnamese army seemed to be at war withitself.”  (Xin tạmdịch sang Việt ngữ như sau: “Từ vị trí chỉ huy của mìnhtrên đĩnh một ngọn đồi bên ngoàithành phố, một Trung Úy TQLC Mỹ đãbàng hoàng không tin được là anhđang nhìn hai trận đánh đang diễn racùng một lúc: bên phía tây, các chiếnhữu TQLC của anh đang nhau với ViệtCộng, còn bên phía đông thì QLVNCH cóvẻ như đang tự đánh lẩn nhau”).

Tập 5: Episode 5, “This Is What We Do” (July 1967 – December 1967)

          Cũng giống nhưTập 4, người xem phim không tìm thấymột hoạt động nào của QLVNCH trongthời gian 6 tháng còn lại của năm 1967này.  Gần như toànbộ Tập 5 này dành để trình bày 3điều: 1) Hoạt động của TQLC Mỹtại vùng Phi Quân Sự, đặc biệtlà tại căn cứ Cồn Thiên; 2) Việc BắcViệt chuẩn bị kế hoạch Tổng Tấn CôngTết Mậu Thân; và 3) Các hoạt độngcủa phong trào phản chiến tại Mỹ.  Về VNCH, Tập 5 chỉdành một đoạn nhỏ nói về cuộcbầu cử Tổng Thống đầu tiên củaÐệ Nhị Cộng Hòa vào tháng 9-1967 màliên danh Thiệu-Kỳ đã chỉ thắngvới 35% số phiếu bầu.  

          Phần đáng ghinhớ nhứt của Tập 5 này làphần trình bày vụ Bắc Việt chuẩnbị kế hoạch Tổng Tấn Công Tết MậuThân.  Bộ phim trìnhbày rất rõ ràng việc Bí Thư ThứNhứt (về sau mới đổi gọi làTổng Bí Thư) Lê Duẩn đã thựcsự nắm quyền tuyệt đối trongBộ Chính Trị quyết định vềđường lối, chính sách của ÐCSVN(lúc đó vẫn còn mang tên Ðảng Lao ÐộngViệt Nam).  Chủtrương của Lê Duẩn là phải chiếmMiền Nam bằng võ lực, một chủtrương mà cả Hồ Chí Minh và VõNguyên Giáp đều không tán đồng.  Vai trò của Chủ TịchHồ Chí Minh đã chỉ còn tượngtrưng trên danh nghĩa mà thôi, và ông đãđược đưa ra khỏi nước,sang Trung Quốc để chữa bệnh.  Tướng Võ NguyênGiáp cũng được đưa sang Hung GiaLợi để trị bệnh.Những thànhphần chống đối trong đảng đềubị loại trừ và bắt giam vớitội danh “xét lại và chống đảng.”  Lê Duẩn cho rằng dânchúng Miền Nam đã quá chán ghétchính phủ VNCH, tình hình đã chín mùi,chỉ cần có một cuộc Tổng Tấn Côngvào các đô thị của Miền Nam thì dânchúng sẽ nổi dậy và chính quyền VNCHsẽ sụp đổ và Mỹ sẽ phảirút ra mà thôi.  Dođó kế hoạch Tổng Tấn Công TếtMậu Thân sẽ có mục tiêu chính lànhắm vào các thành phố của MiềnNam, và vì vậy phải có kế hoạchphụ là kéo quân Mỹ ra các vùng biêngiới để cho việc tấn công vào cácthành phố được thực hiệndễ dàng hơn.  Chúngta sẽ thấy tính toán của Lê Duẩn sailầm như thế nào trong Tập 6.

Tập 6: Episode 6, “Things Fall Apart” (January 1968 – July 1968)

          Tập 6 này chủyếu trình bày diễn tiến và hậuquả, đối với cả 2 phe lâm chiến,của cuộc Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân củaphe Cộng Sản.    

Ðốivới những người Miền Namđã sống dưới chính quyền VNCHnói chung và đã có chứng kiếnvụ tấn công của VC trong thời gian TếtMậu Thân nói riêng, Tập 6 này cho thấy hainhà làm phim đã có nhiều cốgắng trình bày cuộc Tổng Tấn Côngnày một cách rất trung thực.

          Thứnhứt, họ đã nói rõ sựtính toán sai lầm của Lê Duẩn khi chorằng QLVNCH sẽ tan rã và dân chúng Miền Namsẽ nổi dậy lật đổ chính quyềnVNCH.  Chuyện này khônghề xảy ra.  Bộ phimđã có những lời tườngthuật như sau: “Hanoi’s leaders had assumed the ARVN would crumble,that South Vietnamese soldiers would come over to their side.  Instead, not a single unit defected.  The civilian populace Hanoi expected to riseup may have been unhappy with their government, but they had little sympathyfor communism, and when the fighting began, they had hidden in their homes toescape the fury in the streets.”  (Xintạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Các nhà lãnhđạo của Hà Nội đã tin rằngQLVNCH sẽ tan rã, rằng binh sĩ QLVNCH sẽbỏ hàng ngũ chạy sang phía họ.  Sự thật là khôngcó một đơn vị nào đào ngũcả.  Còn dân chúng,mà Hà Nội mong là sẽ nổi dậy,có thể bất mãn đối vớichính phủ của họ, nhưng họ không thíchCộng sản, và khi bắt đầuđánh nhau thì họ trốn trong nhàđể tránh các vụ đánh nhau dữdội ở ngoài đường phố”).  Vềtinh thần chiến đấu của QLVNCH, bộ phimcũng không tiếc lời ca ngợi như sau: “Mostassaults were being quickly beaten back by the ARVN and American forces,” “VietCong units were taking heavy losses from U.S. troops and determined SouthVietnamese forces.” (Xin tạm dịch sang Việtngữ như sau: “Phầnlớn các cuộc tấn công đã nhanhchóng bị QLVNCH và quân Mỹ đẩy lui,” “Quânđội Mỹ và các lực lượngcương quyết chiến đấu của QLVNCHđã gây tổn thất nặng nề cho cácđơn vị Việt Cộng”).  Trong khi toànthành phố Huế đã rơi vào tay quânđịch, các chiến sĩ QLVNCH thuộc SưÐoàn 1 Bộ Binh, dưới sự chỉ huy dũngcảm và cương quyết của ChuẩnTướng Tư Lệnh Ngô Quang Trưởng, đãtử thủ hơn hai tuần lễ trong thành MangCá cho đến khi bắt tay đượcvới các đơn vị TQLC Mỹ từphía Nam Sông Hương tiến lên giải vây.  Bộ phim ghi rõ như sau: “Itwould take two weeks for the Marines to fight their way across the river tosupport the ARVN, who had stubbornly kept the enemy from overwhelming theirdivision headquarters in the Citadel.”  (xin tạm dịch sang Việtngữ như sau: “TQLC[Mỹ] phải mất hai tuần đánh nhaumới vượt được sôngđề tiếp ứng cho QLVNCH, nhữngngười đã cương quyết chốngcự mãnh liệt không để cho địchtràn ngập bộ tư lệnh sư đoàncủa họ trong Thành Nội”).

Bộphim cũng nói rất rõ về sự tổnthất nặng nề của lựclượng cộng sản trong cuộc tấn côngnày như sau: “Everywhere the enemy was suffering terriblelosses.” North Vietnamese General Vo Nguyen Giap, who had opposed the offensivefrom the beginning, later remembered that Tet had been a “costly lesson, paidfor in blood and bone.””  (Xintạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Khắp mọi nơiđịch đều bị tổn thất kinhkhủng.  TướngBắc Việt Võ Nguyên Giáp, ngườiđã chống đối ngay từ đầu, saunày đã nhớ lại và cho rằngvụ Tết đã là một “bài họcđắt giá, phải trả bằngxương máu””).  Nhàvăn Miền Bắc Ðức Huy, tác giảbộ sách 2 tập Bên Thắng Cuộc, khiđược phỏng vấn cũng nói, vàbộ phim đã chuyển dịch và ghi lạinhư sau: “Several high-ranking officers of the North Vietnamese Armysurrendered.  That had never happenedbefore.  No unit was left intact.  Some companies had only two or three menleft.”  (Xin tạm dịchsang Việt ngữ như sau: “Nhiều sĩ quan cao cấp của Quân độiBắc Việt đã đầu hàng.  Trước đây chưa baogiờ có chuyện đó.  Không có đơn vịnào không bị tổn thất. Một số đại đội chỉ còn haiba người sống sót”).  Một cựu chiến binhcủa Miền Bắc, Le Van Cho, nói vềsự tổn thất của đơn vị củaanh, và bộ phim đã chuyển dịch và ghilại như sau: “We seized the Quang Tri Citadel.  We held it for a day and a night.  600 from my unit went in.  More than 300 were killed.  Around 100 were captured.”  (Xin tạm dịch sangViệt ngữ như sau: “Chúngtôi chiếm được Cổ Thành QuảngTrị.  Chúng tôigiữ được một ngày vàmột đêm.  Khi tiếnvào đơn vị tôi có 600 người.  Hơn 300 đã tửtrận.  Khoảng 100 bịbắt làm tù binh”). Một sĩ quan cao cấp của BắcViệt, Ðại Tá Cao Xuan Dai, cũng cho biết,và bộ phim đã chuyển dịch và ghilại như sau: “All of our battalion commanders werekilled.”  (Xin tạmdịch sang Việt ngữ như sau: “Tất cả các tiểu đoàntrưởng của chúng tôi đều tửtrận”).  Bộ phimcũng cung cấp con số thống kê về thươngvong của lực lượng cộng sảnnhư sau: “Of the 84,000 enemy troops who are estimated to have taken part in theTet Offensive, more than half--as many as 58,000 men and women most of themViet Cong—are thought to have been killed or wounded or captured.”  (Xin tạm dịch sangViệt ngữ như sau: “Trongsố 84.000 quân địch đượcước lượng đã tham dựcuộc Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân,người ta nghĩ là hơn phânnửa—khoảng 58.000 cả nam và nữ,phần lớn là Việt Cộng—đãtử trận, bị thương hay bịbắt”).  Vậymà, thật đáng buồn, Chính phủ HoaKỳ, và chính Tổng Thống Johnson, đãbiến một thất bại về quân sự lớnlao như vậy của phe cộng sản thành mộtchiến thắng chính trị vô cùng quantrọng của họ, buộc Mỹ phải xuốngthang chiến tranh và tìm cách thươngthuyết để rút quân về.

Vềvụ tàn sát ở Huế, bộ phim cũngtrình bày rất trung thực qua các cuộcphỏng vấn với các cựu chiến binhcủa Miền Bắc.  Nhàvăn Nguyên Ngọc, một cựu Ðại Tácủa Quân Ðội Nhân Dân của Bắc Việt,đã phát biểu, và đượcbộ phim chuyển dịch và ghi lại như sau: “Idon’t know if the order came from a local commander or from a higherlevel.  They killed people who worked forthe South Vietnamese government and for the American military.  But they also killed people who had beenwrongly arrested.  It was amassacre.  It was a stain.  It was an atrocity of war.”  (Xin tạm dịch sang Việtngữ như sau: “Tôi khôngrõ là lệnh từ một cấp chỉ huytại địa phương hay từ một cấpcao hơn. Họ giết những ngườilàm việc cho Chính phủ Miền Nam và quânđội Mỹ. Nhưnghọ cũng đã giết nhữngngười bị bắt lầm.  Ðó là một cuộctàn sát.  Ðó làmột vết nhơ.  Ðólà một sự tàn ác của chiếntranh”).   Một cựu chiến binhkhác, ông Ho Huu Lan, cũng phát biểu vàđược bộ phim chuyển dịch và ghilại như sau: “In Hue, the suppression and purge of theSaigon administration was brutal.  Werarely speak of it.  I’m willing to talkabout it, but many others are not.  I’mtelling you the truth as I understand it. So please be careful making your film because I could get in trouble.”  (Xin tạm dịch sangViệt ngữ như sau: “TạiHuế, việc tiêu diệt và thanh toán cácphần tử của chính quyền Sài Gònrất tàn bạo. Chúng tôi ít khi nói về chuyệnđó.  Tôi muốn nóivề chuyện đó, nhưng nhiềungười khác thì không.  Tôi đang nói với ôngsự thật theo như tôi hiểu.  Vì vậy xin ông làm ơncẩn thận khi làm phim vì tôi có thểsẽ bi khó khăn”).  

Mộtđiều đáng tiếc trong Tập 6 này làhai nhà làm phim cũng đã không tránhđược hành động thiên lệch khitrình bày vụ Tướng Nguyễn NgọcLoan hành quyết tên đặc công VC NguyễnVăn Lém (bí danh Bảy Lốp).  Tập 6 chiếu đi chiếulại 3, 4 lần tấm hình chụp cảnh TướngLoan bắn tên Bảy Lốp đó, nhưng khônghề nói gì đến những lờiphát biểu sau đây của chính Eddie Adams làngười phóng viên đã chụp tấmảnh đó:

“TheGeneral killed the Viet Cong; I killed the general with my camera. Stillphotographs are the most powerful weapon in the world. People believe them; butphotographs do lie, even without manipulation. They are only half-truths. Whatthe photograph didn’t say was, “What would you do if you were the General atthat time and place on that hot day, and you caught the so-called bad guy afterhe blew away one, two or three American soldiers?” [12]  (Xintạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Ỏng Tướng thìgiết tên Việt Cộng; còn tôi thì giết ôngtướng với máy chụp hình củatôi.  Các tấm ảnh tríchra từ phim là một thứ vũ khímạnh nhứt trên thế giới.  Người ta tin chúng;nhưng các tấm ảnh cũng không nóiđược sự thật, ngay cả khichúng không bị người ta dàndựng.  Chúng chỉlà một nửa của sự thật thôi.  Cái điều mà tấmảnh này không nói là: “Bạn sẽ hànhđộng ra sao nếu bạn là Ông Tướngvào đúng thời gian và địađiểm trong cái ngày nóng bứcđó, và bạn bắt đượccái tên xấu đó ngay sau khi hắnvừa giết xong một, hai, hay ba binh sĩMỹ?”).

Tập 7: Episode 7, “The Veneer of Civilization” (June 1968-May1969)

          Tập 7 trình bàycác diễn biến chính trị tại Hoa Kỳchung quanh vụ bầu cử Tổng Thống củanăm 1968 kết thúc với chiến thắngrất sít sao của ứng cử viênđảng Cộng Hòa Richard M. Nixon, và khởiđầu đầy khó khăn của Hòa ÐàmParis.

          Tập phim này cungcấp cho người xem 2 thông tin rất đángchú ý, không phải vì là hoàn toàn mớimẻ, nhưng vì là lần đầu tiênđược trình bày công khai. 

Thông tinthứ nhứt liên quan đến Nixon vàHòa Ðàm Paris.  Chúngta đều đã biết việc ứngcử viên Nixon đã bí mật vậnđộng để Tổng Thống Thiệu từchối không gửi phái đoàn VNCH đidự Hòa Ðàm Paris vào ngày 30-10-1968.[13]  Tổng Thống Johnson đãđược cả 2 cơ quan FBI (Federal Bureau ofInvestigation = Cơ Quan Ðiều Tra Liên Bang) và CIA (CentralIntelligence Agency = Cơ Quan Trung Ương Tình Báo)thông báo về việc này. Johnson đã goi điện thoại cho Nixon đểhỏi về việc này và Nixon chối biếnkhông nhận có dính líu vào việcđó.  Tập 7 đãcho người xem phim được nghe toànbộ cuộc điện đàm này.  

Thông tinthứ nhì liên quan đến các việcphần lớn con cái của các cán bộvà đảng viên cấp cao của Bắc Việtđã không có tham gia chiến đấu ởMiền Nam.  Bộ phimtrình bày như sau: “The sons of some party officials and theirfriends were sent abroad to escape the draft.” (Xin tạm dịch sang Việt ngữnhư sau: “Con cái củamột số viên chức trong đảng vàbạn bè của họ được đưara ngoại quốc để tránh bị độngviên”).  Nhà văn HuyÐức nói rõ ràng và cụ thể hơn,và bộ phim đã chuyển dịch và ghilại như sau: “Some leaders sent their children to thefront, but they were the minority.  Mostleaders’ children, like Le Duan’s children, were sent to the Soviet Union tostudy.”  (Xin tạmdịch sang Việt ngữ như sau: “Một vài vị lãnh đạo đãđể cho con ra mặt trận, nhưng họchỉ là thiểu số. Con cái của phần lớn các vịlãnh đạo, như các con của Lê Duẩn, đềuđược gửi sang Liên Xô đi duhọc”).  Ðể minh họacho các điểm này, Tập 7 cũng đãtrình bày những đoạn phim quay cáchình ảnh của một số sinh viên Việt Namtại Liên Xô trong thời gian chiến tranh.

Tập 8: Episode 8, “The History of the World” (April 1969 – May1970)

          Tập 8 trình bàynhững diễn tiến quan trọng trong giaiđoạn này: 1) Mỹ bắt đầu rútquân ra khỏi Việt Nam; 2) Việt-Nam-hóa chiếntranh; 3) Mỹ và Bắc Việt bắtđầu mật đàm tại Paris; 4) Vụ quânMỹ tàn sát dân làng tại Mỹ Lai; 5)Các vụ biểu tình bạo động củasinh viên Mỹ tại các đại học đưađến vụ 4 sinh viên bị bắn chếttại đại học Kent State ở tiểu bang Ohio;6) Chủ TỊch HCM mất; và, 7) Quân Mỹ vàQLVNCH hành quân sang Kampuchia.

          Ðiều đáng ghinhận là Tập 8 này cũng có nhữnglời tương đối tốt đẹp vềQLVNCH như sau:  “ManyARVN units did fight well.  They hadborne the brunt of the fighting during the Tet Offensive, and, by the mid of1969, 90,000 of them had been killed in combat. Their bravery was often overlooked by Americans.”  (Xin tạm dịch sangViệt ngữ như sau: “Nhiềuđơn vị của QLVNCH đã chiếnđấu rất giỏi. Họ đã đứng mũi chịusào trong trận Tổng Tấn Công Tết Mậu Thân,và, vào giữa năm 1969, 90.000 trong sốhọ đã tử trận.  Sự dũng cảm củahọ thường bị người Mỹbỏ qua, không quan tâm”).

Tập 9: Episode 9, “A Disrespectful Loyalty” (May 1970 – March1973)

          Có thể nói Tập9 là một trong những tập quan trọngnhứt của bộ phim, trình bày nhữngdiễn biến chính trị và quân sự vôcùng quan trọng ở cả Việt Nam và HoaKỳ trong khoảng thời gian gần hai năm nàyđưa đến việc ký kết Hiệp ÐịnhParis ngày 27-1-1973: 1) Trận Hạ Lào (Hành QuânLam Sơn 719, tháng 2-3 năm 1971); 2) Trận TổngTấn Công 1972 (Easter Offensive); 3) Phong trào phảnchiến trong giới cựu quân Nhân Mỹvới việc điều trần của John Kerryvà việc cựu chiến binh Mỹ vứtbỏ huy chương trước Quốc Hội; 4)Nhượng bộ của Mỹ tại mật đàmở Paris và việc Tổng Thống Thiệu khôngchịu ký vào thỏa hiệp đã kýkết giữa Kissinger và Lê Ðức Thọ ; 5)Vụ xuất bản tập hồ sơ The Pentagon Papers;và 6) Vụ dội bom Hà Nội dịp GiángSinh 1972 đưa đến việc ký kết HiệpÐịnh Paris.

          Trận Hạ Lào làmột cuộc hành quân lớn, cấp quânđoàn, của QLVNCH, với mục tiêu pháhủy một số căn cứ và kho tàngcủa quân CSBV trên đường mòn HCM vớitrọng điểm là thị trấn Tchepone ởHạ Lào.[14, 15] Cuộc hành quân đặt dướiquyển chỉ huy của Trung Tướng HoàngXuân Lãm, Tư Lệnh Quân Ðoàn 1, với sựtham gia của một số đơn vị củacác lực lượng thiện chiếnnhứt của QLVNCH: Sư Ðoàn Nhảy Dù,Sư Ðoàn TQLC, và Sư Ðoàn 1 Bộ Binh.  Các đơn vị củaQLVNCH, tuy có đến được Tchepone vàphá hủy nhiều kho tàng của CSBV, nhưng đãbị thiệt hại rất nặng.  Tập 9 ghi nhận như sau: “Althoughindividual ARVN units fought bravely the invasion was a failure.”  “Almost half of the 17,000 South Vietnamese,who entered Laos, would be killed, wounded or captured.”  (Xin tạm dịch sang Việtngữ như sau: “Mặcdù các đơn vị của QLVNCH đãchiến đâu rất anh dũng, trận tấn côngvượt biên giới này đã thấtbại.” “Gần phân nửa của tổng số 17,000quân Nam Việt Nam, đã tiến vào Lào, sẽtử trận, bị thương hay bị bắtsống”).   Khi đượcphỏng vấn, chính Trung Tá Trần NgọcHuế, Tiểu Ðoàn Trưởng, Tiểu Ðoàn2/2, Sư Ðoàn 1 Bộ Binh, cũng đã phátbiểu, và bộ phim đã chuyển dịchvà ghi lại như sau: “My battalion finally was surrounded, I waswounded three times.  You know how muchmy battalion survive? About 50 soldiers and men.  And when we go there you know how much? About600.”   (Xin tạm dịch sangViệt ngữ như sau: “Saucùng tiểu đoàn của tôi đã bị baovây, tôi bị thương ba lần.  Ông có biết tiểu đoàntôi còn bao nhiêu người sống sót không?  Khoảng 50 ngườilính.  Và lúc tụitôi tiến vô ông có biết bao nhiêu không? Khoảng600”).  Cả 2 chínhphủ VNCH và Hoa Kỳ đều tuyên bố cuộchành quân là một chiến thắng đểchứng minh là chủ trươngViệt-Nam-hóa đã thành công, và Hoa Kỳđã có thể yên tâm tiếp tục rútquân.  Tổng Thống Nixonđã lên Tivi tuyên bố với dân chúng HoaKỳ như sau: “Consequently, tonight, I can report thatVietnamization has succeeded.  Because ofthe increased strength of the South Vietnamese, because of the success of theCambodian operation, because of the South Vietnamese operation in Laos, I amannouncing an increase in the rate of American withdrawals.”  (Xin tạm dịch sangViệt ngữ như sau: “Vìvậy, đêm nay, tôi có thể báo cáo làchương trình Việt-Nam-hóa chiến tranhđã thành công.  Vìsự lớn mạnh của Miền Nam, vìsự thành công của cuộc hành quân sang CaoMiên, vì cuộc hành quân sang Lào của MiềnNam, tôi xin thông báo sẽ tăng thêm mứcđộ triệt thoái của quân Mỹ”).

          Trước khi xảy ratrận Tổng Tấn Công năm 1972, vào ngày10-3-1972, Sư Ðoàn 101 Dù là đơn vịtác chiến cuối cùng của quân độiMỹ đã được rút ra khỏiViệt Nam.  Vì vậy trongtoàn bộ cuộc Tổng Tấn Công này,ở cả 3 mặt trận là QuảngTrị, Kontum, và An Lộc, các đơn vịcủa QLVNCH đã chiến đấu đơnđộc; Hoa Kỳ chỉ yểm trợ phi pháomà thôi.  Tập 9 nóirất đúng về tầm quan trọng củacác cuộc không tập bằng B-52 tại chiếntrường An Lộc, nhưng không đề cậpgì nhiều đến sự chiến đấu vàhy sinh anh dũng của các đơn vị củaQLVNCH tại khắp các mặt trận trongsuốt thời gian của cuộc Tổng Tấn Côngđó, đặc biệt là trong Chiếndịch Lam Sơn 72 tái chiếm Quảng Trị,là trận đánh đẫm máu nhứttrong suốt thời gian gần 20 năm củaChiến Tranh Việt Nam; chỉ riêng Sư Ðoàn TQLCđã có trên 3.500 binh sĩ tử trận, vàhàng ngàn bị thương.[16]

          Về Hòa Ðàm Paris,Tập 9 đã trình bày rất trung thựcviệc Kissinger đã phản bội đồng minhVNCH trong mật đàm với Lê Ðức Thọtrong ghi nhận sau đây: “At the secret talks in Paris, Kissinger hadoffered his North Vietnamese counterpart, Le Duc Tho, the most significantconcessions that United States had yet made: North Vietnam could keep itstroops in the South—ten of thousands of them. And in exchange for the release of American prisoners of war, allAmerican troops will be withdrawn within seven months… Thieu knew nothing aboutthe new American concessions to Hanoi.”  (Xintạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Tại hội đàmmật ở Paris, Kissinger đã tặng chongười đối đầu của BắcViệt, Lê Ðức Thọ, những nhượngbộ quan trọng nhứt mà Hoa Kỳ chưa baogiờ làm: BắcViệt có thể giữ quân lại ởMiền Nam—hàng chục ngàn quân.  Và để đổilại cho việc trao trả tù binh Mỹ, tấtcả lực lượng của Mỹ sẽrút hết trong vòng bảy tháng…  ÔngThiệu không được báo cho biết gìhết về những nhương bộ mớinày của Mỹ đối với Hà Nội”).

          Về tập tàiliệu The Pentagon Papers, Nixon đã cốgắng ngăn chận việc xuất bản nhưngkhông thành.  Sau đó ôngra lệnh cho Bộ Tư Pháp truy tố Daniel Ellsberglà người đã đã tiết lộtài liệu.  Lúc đầu,Nixon có vẻ yên tâm vì nói chung bộ tàiliệu cho thấy các chính quyền củaÐảng Dân Chủ (Kennedy và Johnson) bị liên cannhiều. Nhưng sau đó, chính Kissingernhắc nhở ông là nếu ông không ngănchận mọi việc thì rồi đây có thểnhững bí mật của chính ông (nhưvụ vận động cho ông Thiệu không chịucử phái đoàn đi họp Hòa ÐàmParis trước vụ bầu cử tổngthống năm 1968; hay vụ ông bí mật mởrộng chiến tranh sang Kampuchia) cũng sẽ bị phanhphui.  Do đó ông đãcho thành lập một nhóm nhân viên hoạt độngbí mật (mà báo chí Mỹ đã ban chonickname The Plumbers) tìm mọi cách bấthợp pháp xâm nhập một số cơquan nghiên cứu mà Ellsberg đã từnglàm việc (như Rand Corporation) hay ông nghĩ cóthể có giữ những tài liệu cóhại cho ông (như Brookings Institute).  Tập 9 có ghi lại cáccuộc điện đàm của Nixon vớicộng sự viên thân tín của ông là BobHaldeman (tên đầy đủ là Harry Robbins “Bob”Haldeman) lúc đó là Bộ TrưởngPhủ Tổng Thống (White House Chief of Staff) như sau: “Well,I mean, I want it implemented on a thievery basis.  Goddamn it, get in and get those files.  Blow the safe and get it.” (Xintạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Nè, tôi nói thật, tôimuốn cho làm cái vụ đó, làm nhưđi ăn trộm vậy đó.  Chết tiệt ! Bảo tụinó vô đi, và chớp mấy cái hồsơ đó cho tôi.  Chonổ cái tủ sắt và lấy hồ sơđi”) (băng ghi âm ngày 17-6-1971) “Did they get the Brookings Instituteraided last night? Có tiếng Bob Haldeman trảlởi “No”  “Get it done. I want itdone.  I want the Brookings Institutesafe cleaned out.  Bob, get on the Brookingsthing right away.  I’ve got to get thatsafe cracked over there.”  (Xintạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Tối hôm qua tụi nócó đánh Brookings Instittute không?” Có tiếngBob trả lời: “Không có.” “Làm đi, tôimuốn tụi nó làm đi.  Tôi muốn vét sạch hồsơ trong tủ sắt của Brookings Institute.  Bob à, cho tụi nó làmcái vụ Brookings ngay đi. Tôi phải phá cho được cáitủ sắt ở đằng đó”). (băngghi âm ngày 1-7-1971).  Chínhcái nhóm The Plumbers này cũng sẽxâm nhập trụ sở của Ðảng Dân Chủđưa đến vụ Watergate làm cho Nixon phảibị thân bại danh liệt.

Tập 10: Episode 10, “The Weight of Memory (March 1973 – Onward)

          Tậpcuối cùng này của bộ phim trình bàynhững diễn tiến chính trị tại HoaKỳ, chủ yếu xoay quanh vụ Watergate, đưađến việc từ chức của TổngThống Richard Nixon và sự bất lực đốivới Quốc Hội của người kếvị là Tổng Thống Gerald Ford, và tìnhhình quân sự hoàn toàn bất lợitại Miền Nam đưa đến sự sụpđổ và đầu hàng của VNCH.  Tập 10 cũng nóiđến những biến cố xảy ra sau ngày30-4-1975: học tập cải tạo, thuyền nhân, bình-thường-hóaquan hệ giữa Hoa Kỳ và Việt Nam.

          Vụ Watergate tạo ramột cuộc khủng hoảng chính trịlớn tại Hoa Kỳ và đưa đến 2sự kiện chính trị chưa từngcó trong lịch sử của Hoa Kỳ.  Thứ nhứt làchính Tổng Thống Nixon, để tránh bịQuốc Hôi Truất phế, đã phải từchức.  Thứ hailà khi Phó Tổng Thống Ford lên kế vịthì ông trở thành một vị tổngthống không hề được dân bầu ra.  Sự việc là nhưsau: năm 1972, liên danh Cộng Hòa Richard M. Nixon – SpiroT.  Agnew được dânMỹ bầu ra với một đa số rấtlớn; ngày 10-10-1973, Agnew phải từchức Phó Tổng Thống vì bịđiều tra trong một vụ tham nhủng lúc ôngcòn làm Thống Ðốc của tiểu bang Maryland,và Ông Ford, lúc đó chỉ là 1 Dân Biểucủa tiểu bang Michigan, đã được ôngNixon chọn làm Phó Tổng Thống để thaycho ông Agnew.  Vị thếcủa ông Ford như là một tổng thống rấtlà yếu, và vì vậy ông rất bịlép vế trước Quốc Hội, tấtcả các đề nghị viện trợ quânsự cho VNCH của ông đều bị bácbỏ.  QLVNCH lâm vàohoàn cảnh vô cùng bất lợi vì xăngdầu, đạn dược đều bịhạn chế đến mức gần như khôngthể tiếp tục chiến đấu đượcnữa.  Tập 10 ghinhận như sau: “Fuel ran low. So did ammunition.  Before long, artillerymen in the CentralHighlands could fire just four shells a day, and infantrymen were limited to 85bullets a month.”  (Xin tạmdịch sang Việt ngữ như sau: “Xăng dầu không còn nhiều. Ðạndược cũng vậy. Chẳng bao lâu, các pháo thủ trên vùngCao Nguyên chỉ được bắn bốn viênđạn đại bác một ngày, vàcác người lính bộ binh đã bịgiới hạn còn có 85 viên đạn mổitháng”).  Chính TrungTướng Lâm Quang Thi, Tư Lệnh TiềnPhương của Quân Ðoàn I, khi đượcphỏng vấn, cũng xác nhận, và bộ phimđã chuyển dịch và ghi lại như sau: “Withone grenade and 85 bullets a month, how could you fight? After you’ve shot all85 bullets, you can’t fight anymore. Defeat was inevitable.”  (Xintạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Với một quả lưuđạn và 85 viên đạn một tháng, làmsao mà đánh giặc. Sau khi anh bắn hết 85 viên đạnđó, anh còn có thể đánh đấmcái gì nữa.  Thualà cái chắc”).  Trongkhi đó, CSBV vẫn tiếp tục nhậnđược viện trợ quân sựđầy đủ từ Liên Xô và TrungQuốc.  Bắc Việtngang nhiên và công khai xây dựng một xa lộ tronglãnh thổ của VNCH và các đoàn xetải của quân đội Bắc Việt dichuyển trên xa lộ này công khai vào banngày.  Họ còn xâylắp cả một đường ống dẫndầu từ Bắc vào Nam. Tập 10 trìnhbày rất rõ ràng các sự kiệnnày với hình ảnh và ghi nhận nhưsau: ”Hanoibuilt a new highway within South Vietnam itself, down which convoys of 200 to300 vehicles soon began streaming: trucks, tanks, and heavy guns moving inbroad daylight.  And they began layingdown a giant oil pipeline to fuel their vehicles in the South.”  (Xin tạm dịch sangViệt ngữ như sau: “HàNội đã xây dựng một xa lộmới ngay bên trong lãnh thổ của VNCH,chẳng bao lâu sau đó hàng đoàn xetừ 200 đến 300 chiếc bắt đầuđổ xuống: xe tải, chiến xa, đạipháo di chuyển công khai vào ban ngày banmặt.  Và họcũng bắt đầu đặt mộtđường ống dẫn dầu đểtiếp tế xăng dầu cho xe cộ của họở Miền Nam”). Tập 10 cũng nhắc lại sự camkết của Tổng Thống Nixon khi thuyết phục(hay là ép buộc thì đúng hơn)Tổng Thống Thiệu ký Hiệp Ðịnh Paris: “Nixonhas privately promised President Thieu that he would retaliate with Americanairpower if Saigon ever seemed seriously threatened.”  (Xin tạm dịch sangViệt ngữ như sau: “Nixonđã hứa riêng với Tổng ThốngThiệu là ông ta sẽ sử dụng Khônglực Hoa Kỳ để trả đủa bấtcứ lúc nào nếu Sài Gòn bị đedọa nặng nề”).  HoaKỳ, sau khi Tổng Thống Nixon từ chứcvà Tổng Thống Ford lên thay, đã hoàntoàn bỏ qua, làm ngơ, không thực hiệnlời cam kết này. Sau khi Phước Long trước và Ban MêThuột sau đó đã bị họ tiếnchiếm, mà Hoa Kỳ hoàn toàn không can thiệpgì cả, CSBV biết rõ thời cơ củahọ đã đến và họ đã dốctoàn lực (chỉ giữ lại cómột sư đoàn để bảo về MiềnBắc) tấn công Miền Nam, với kếtquả sau cùng là việc đầu hàngcủa Tổng Thống Dương Văn Minh vàongày 30-4-1975.  Mộtniềm an ủi cho nhân dân Miền Nam là QLVNCHđã bảo vệ được danh dựtrong trận đánh cuối cùng tại XuânLộc, chỉ với 1 đơn vị là SưÐoàn 18 Bộ Binh, dưới quyền TưLệnh của Chuẩn Tướng Lê Minh Ðảo,đã chận đứng đượcmấy sư đoàn của quân BắcViệt.  Tập 10 trìnhbày như sau: “Just 40 miles east of Saigon, NorthVietnamese forces attacked the town of Xuan Loc on Highway One, the lastobstacle on their way to Saigon. Although they were outnumbered and outgunned, the South Vietnamesecommander refused to retreat.  He wasdetermined to keep the enemy from his capital.” (Xin tạm dịch sang Việt ngữnhư sau: “Cách SàiGòn chỉ có 40 dặm về phía đông,các lực lượng Bắc Việtđã tấn công thị trấn Xuân Lộc trênQuốc Lộ 1, điểm ngăn chận cuốicùng trên đường tiến về SàiGòn của họ. Mặc dù đối đầu vớilực lượng địch đông hơnvới súng đạn nhiều hơn, tướngchỉ huy QLVNCH đã không chịu rút lui.  Ông cương quyết ngănchận không cho quân địch tiến về thủđô”).  Hai nhà làmphim đã cho trình chiếu lại cuộc phỏngvấn Tướng Ðảo trước trận XuânLộc: “Reporter: You’re certain that you can hold Xuan Loc?”   (Xintạm dịch sang Việt ngữ như sau: “Phóng viên hỏi: Ông tinchắc có thể giữ đượcXuân Lộc?). Tướng Ðảo đã trảlời một cách cương quyết:“Surely, surely.  I am certain toyou.  I am sure with you I can hold XuanLoc.  Even the enemy uses, you know, thedouble forces, or maybe three times more than my forces.  But no problem, sir.  No problem.” (Xin tạm dịch sang Việt ngữnhư sau: “Chắcchắn, chắc chắn.  Tôi tin chắc vớiông.  Tôi tin chắcvới ông tôi có thể giữđược Xuân Lộc.  Cho dù địch cóthể sử dụng lực lượnggấp đôi, ông biết không, hay ngay cả gấp ba sovới lực lượng của tôi.  Cũng không có vấnđề gì cả, thưa ông. Không có vấn đề gì cả”).

          Sau khi chiến thắngvà chiếm trọn Miền Nam, hoàn thànhviệc thống nhứt đất nướcnhư họ mong muốn, ÐCSVN đã phạm sai lầmlớn khi áp dụng một đườnglối hẹp hòi, thiếu khoan dung, và bất nhânđối với người dân của ‘bênthua cuộc,” kể cả đối vớinhững người đã chết.  Tập 10 nói rất rõ: “Amillion and a half people are believed to have undergone some form ofindoctrination.  ARVN cemeteries werebulldozed or padlocked, as if the memory of an independent South Vietnam, andthose who had died for that cause, could both be obliterated.”  (Xin tạm dịch sangViệt ngữ như sau: “Ngườita tin rằng có khoảng 1 triệu rưởingười đã phải trải qua mộthình thức nhồi sọ nào đó.  Các nghĩa trang của QLVNCHđã bị san bằng hay đóng cửakhông cho vào, làm như ký ức vềmột Miền Nam Việt Nam độc lập, vànhững người đã hy sinh cho cáichính nghĩa đó, có thể bị xóasạch được”).  BàDương Vân Mai Elliott của Miền Nam đãphát biểu: “The communists, in their effort to erasevestiges of the former regime, have not allowed the South Vietnamese, who losttheir sons in the war, to mourn, to have their graves, and to honor theirmemory.  It caused a division that laststo this day, that the winners would not accommodate the losers in someway.”  (Xin tạm dịchsang Việt ngữ như sau: “Những người cộng sản, trongcố gắng xóa bỏ những di tíchcủa chế độ cũ, đã không cho phépdân chúng Miền Nam, đã có con tửtrận, được để tang,được xây mộ cho họ, đượctưởng niệm họ. Ðiều này đã tạo ra một sựchia rẽ kéo dài cho đến ngày hôm nay, chothấy người chiến thắng đãngược đãi kẻ thua trận khôngthương tiếc”).  Nhàvăn Nguyên Ngọc của Miền Bắc cũngđã nói, và bộ phim đã chuyểndịch và ghi lại như sau: “We’ve become one country, but Iwould say that: the Vietnamese people have never been more divided than theyare now.”  (Xin tạmdịch sang Việt ngữ như sau: “Chúng tôi đã trở thành mộtnước, nhưng tôi xin nói với ôngđiều này: người Việt Nam chưa baogiở chia rẽ như hiện nay”).

          Phần còn lạicủa Tập 10 này trình bày hành trìnhbình-thường-hóa quan hệ ngoại giaogiữa Hoa Kỳ và Việt Nam, đặcbiệt chú trọng đến nhữngđóng góp của các cựu chiến binhMỹ trong việc hàn gắn giữa hainước.  Tập 10cũng dành một phần khá quan trọngtrình bày về Tượng Ðài KỷNiệm Cựu Chiến Binh Việt Nam (Vietnam VeteransMemorial) tại Washington, D.C., và phần này, theonhận định của người viết bàinày, có lẽ là phần cảm độngnhứt của bộ phim. Hai nhà làm phim chỉ trình bày tươngđối vắn tắt về chuyện thuyềnnhân và tỵ nạn của người Miền Nam.

Thay lời kết

          Hainhà đạo diễn đã chờ đếnTập cuối cùng của bộ phim để, qualời phát biểu của một cựu quânnhân Mỹ, Ðại Tá Stuart A. Herrington, một sĩ quantình báo, trình bày về tính chínhtrực (rectitude) của cuộc chiến: “Maybeit was all a big mistake, and, you know what, what was it all about?  We answered the call, me and probably 2 andhalf million other young Americans who went over there.  It was a cause worth the effort.  And sometimes, things just don’t turn out andthe guys in the white hats don’t win.  Butthat doesn’t make it, uh, or doesn’t basically take away from the rectitude ofthe cause.”  (Xin tạmdịch sang Việt ngữ như sau: “Có thể tất cả đã là mộtsai lầm lớn, và, ông biết không, nó làvề chuyện gì chứ? Chúng tôi đã đáp lời kêugọi, tôi với có lẽ hai triệurưởi người Mỹ trẻ khácđã đến đó. Ðó là mộtchuyện đáng làm.  Vàđôi khi, mọi việc không diễn ra như ý mìnhmuốn và những người làmchuyện đúng đã không thắng.  Nhưngchuyện đó đâu có khiến cho, ừ, hayđâu có lấy mất đi tính chínhtrực của chính nghĩa.”).

          Hai nhà làm phimcũng đạt được thành công mộtphần nào trong chủ trương giúpđồng bào của họ mở rộng đượctầm nhìn và tiến đến hiểu nhau vàthông cảm nhau hơn.  TrongTập 10, bà Nancy Biberman, một ngườiđã từng hoạt động phảnchiến, đã vô cùng xúc động khiphát biểu như sau: “When I look back at the war, you know,think of the horrible things, you know, we said to, you know, vets who werereturning, you know, calling them “baby killers” and worse, I, you know, I feelvery sad about that.  I can only saythat, you know, we were kids, too, you know, just like they were.  It grieves me, it grieves me today, it painsme to think of the things that I said and that we said.  And I’m sorry, I’m sorry.”  (Xin tạm dịch sangViệt ngữ như sau: “Khitôi nhìn lại cuộc chiến, ông biết không,nghĩ về những điều kinh khủng, ôngbiết không, mà chúng tôi đã nói, ôngbiết không, với những cựu chiếnbinh khi họ trở về, ông biết không, gọihọ là ”bọn giết con nít” và nhiềuđiều tệ hại hơn nữa, tôi, ông biếtkhông, tôi cảm thấy rất đau buồn vềchuyện đó.  Tôichỉ có thể nói rằng, ông biết không,lúc đó chúng tôi cũng còn là trẻcon, ông biết không, cũng giống như họ vậyđó.  Chuyệnđó làm tôi đau buồn, nó làm tôiđau buồn ngày hôm nay, tôi đau đớn khinghĩ đến những điều mà tôiđã nói, mà chúng tôi đã nói.  Vàtôi ân hận, tôi ân hận.”    

          Cảm nghĩ củangười viết bài này sau khi xem xong bộ phim,nhứt là đoạn phim trong Tập 10 vềviệc thông cảm, bỏ qua hận thù ngàyxưa và làm hòa với nhau giữacác cựu chiến binh Hoa Kỳ và VC, làmột sự chua xót khi thấy là, đãhơn 40 năm kể từ khi cuộc chiếnchấm dứt, người Việt Nam trongnước và ở hải ngoại, dùchung một dòng máu, vẫn chưađược mở rộng tầm nhìnđể có thể hiểu nhau và thông cảmnhau.  Sự chia rẽvà hận thù vẫn còn nguyên đó.  Cho đến bao giờmới chấm dứt đây?

         

Ghi Chú:

1.    PhạmCao Dương.  Trướckhi bảo lụt tràn tới: Bảo Ðại –Trần Trọng Kim và Ðế Quốc Việt Nam,9/3/1945 – 30/8/1945.  SanBernardino, Calif.: Truyền Thống Việt, 2017.  Chương3, Hoạt động và thành tích: cứuđói, một việc làm tối khẩn cấp,tr. 181-204.   

2.    ÐoànThêm. Hai mươi năm qua: việc từng ngày(1945-1964); tựa của Lãng Nhân.  Los Alamitos, Calif.: Xuân Thu, [1979?]. 

3.    LýTòng Bá.  Hồiký 25 năm khói lửa của mộttướng lãnh cầm quân tại mặttrận. San Jose, Calif: Tác giả xuất bản,1995.  Tr. 65.

4.    LýTòng Bá, sđd, các tr. 65, 68, 71, 79, và 80.

5.    ÐỗMậu.  Việt Nam máulửa quê hương tôi: hồi-kýchính-trị, bổ-túc hồ-sơ vềsự sụp-đổ của Việt-Nam Cộng-Hoa.  Mission Hills, Calif.: Quê Hương,1986.  Tr. 1251-1258.

6.    LêXuân Khoa.  Việt Nam 1945-1995:chiến tranh, tị nạn và bài học lịchsử.  Tập 1: Tịnạn 1954 và bài học bốn cuộc chiến(1945-1979).  Bethesda, Md.: TiênRồng, 2004.  Tr. 434-444.

7.    TrầnNgọc Toàn.  “Tiểu Ðoàn 4 TQLC vớitrận Bình Giả (30-12-1964),”trong Tuyển tập 2: Haimươi mốt năm chiến trận của binhchủng Thủy Quân Lục Chiến Việt Nam (1954-1975).  Santa Ana, Calif: Tổng HộiTQLC/VN Tại Hoa Kỳ, 2005. Tr. 75.

8.    LâmVĩnh Thế.  Tìmhiểu thêm về việc Thủy Quân Lục Chiến HoaKỳ đổ bộ vào Ðà Nẵng ngày8-3-1965, tài liệu trực tuyến, cóthể đọc toàn văn tại địa chỉIntrnet sau đây: http://www.namkyluctinh.org/tac-gia-tac-pham/i-j-k-l-m/lam-vinh-the/tim-hieu-them-ve-viec-thuy-quan-luc-chien-hoa-ky-do-bo-vao-dha-nang-ngay-8-3-1965

9.    LâmVĩnh Thế.  ViệtNam Cộng Hòa, 1963-1967: những năm xáotrộn.  Hamilton, Ont.: HoàiViệt, 2010.

10.                      Ðoàn Thêm.  1966: việc từng ngày.  Los Alamitos, Calif.: Xuân Thu, 1989.  Tr. 241-248.

11.                      Ðoàn Thêm.  1967: việc từng ngày.  Los Alamitos, Calif.: Xuân Thu, 1989.  Tr. 309-313.

12.                      The Story behind thefamous “Saigon execution” photo,tài liệu trực tuyến, có thểđọc toàn văn tại địa chỉ Internetsau đây: https://cherrieswriter.wordpress.com/2015/08/03/the-story-behind-the-famous-saigon-execution-photo/

13.                      Lâm VĩnhThế.  Tổng ThốngNguyễn Văn Thiệu và Hòa Ðàm Paris,tài liệu trực tuyến, có thể đọctoàn văn tại địa chỉ Internet sauđây:  http://www.namkyluctinh.org/tac-gia-tac-pham/i-j-k-l-m/lam-vinh-the/tong-thong-nguyen-van-thieu-va-hoa-dham-paris

14.                      Nguyễn KỳPhong.  Ðường vềTchepone: Hành Quân Lam Sơn 719.  Garden Grove, Calif.: TựLực, 2013.  Xin đọcChương 9: Nhận định về LS719, tr. [185]-195.

15.                      Nguyễn DuyHinh.  Lam Son 719.  Washington,D.C.: U.S. Army Center of Military History, 1979. (Indochina monographs).

16.                      Ngô VănÐịnh.  “Tái chiếm Cổ Thành Quảng Trịngày 15-9-72,” trong Tuyển tập 2: Hai mươimốt năm chiến trận của binh chủng ThủyQuân Lục Chiến Việt Nam (1954-1975).  Santa Ana, Calif: Tổng Hội TQLC/VNTại Hoa Kỳ, 2005.  Tr. 402.